khách hàng kinh doanh, môi trường khách hàng đang sống. Ngoài ra, cán bộ tín dụng cũng cần phải có kỹ năng phân tích từ chi tiết đến tổng thể các thông tin về khách hàng cũng như về dự án đề nghị vay vốn. Đồng thời, mỗi cán bộ tín dụng cũng cần phải có khả năng dự đoán các vấn đề liên quan đến khách hàng vay vốn. Bởi vậy, cán bộ tín dụng phải được đào tạo bài bản và đào tạo kỹ lưỡng, toàn diện để gây dựng đội ngũ cán bộ quản lý tín dụng có kinh nghiệm, có kiến thức chuyên môn và khả năng nhanh nhạy trong việc tiếp cận và áp dụng các chuẩn mực quốc tế. Ngoài ra, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng cũng rất quan trọng. Nó ảnh hưởng đến chất lượng của các khoản vay. Tình trạng nợ xấu rất dễ xuất hiện khi cán bộ tín dụng cố tình làm sai qui trình tín dụng hay bỏ sót một vài bước trong qui trình nhằm nhận được khoản bồi thường từ khách hàng.
4.3.5. Đổi mới công nghệ ngân hàng
Công nghệ đã và đang trở thành công cụ quan trọng trong quản lý, đảm bảo an toàn và hiệu quả.
Việc đổi mới công nghệ ngân hàng không những đưa ra các sản phẩm mới, đa dạng, nhiều tiện ích cùng trên một sản phẩm mà còn tạo điều kiện cho công tác quản lý theo phương pháp hiện đại như hoạt động kinh doanh phân tán nhưng quản trị điều hành phải tập trung tại Trụ sở chính, cho phép trụ sở có thể giám sát chặt chẽ, sát sao việc thực hiện qui trình nghiệp vụ tại từng chi nhánh. Nâng cao năng lực quản trị điều hành, kiểm tra, kiểm soát, quản trị rủi ro, bảo mật và an toàn, an ninh dữ liệu. Các nghiệp vụ quản lý rủi ro tín dụng, quản lý rủi ro tác nghiệp và thị trường tiếp tục được nghiên cứu, tìm hiểu nhằm mua những chương trình phần mềm hiện đại để theo dõi, kiểm soát rủi ro.
Tuy nhiên khi áp dụng giải pháp này cần lưu ý 2 vấn đề:
Thứ nhất, đầu tư hiện đại hóa công nghệ ngân hàng đòi hỏi lượng vốn lớn. Vì thế, NHNo&PTNT Việt Nam cần phải có chiến lược tài chính trong dài hạn nhằm có thể huy động được nguồn vốn đủ để đầu tư vào công nghệ ngân hàng hiện đại, có thể áp dụng sâu rộng cho hệ thống mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch của mình. Ngân hàng cần chú trọng đẩy mạnh công tác hậu kiểm, giám sát và kiểm soát chéo nhằm đảm bảo phát hiện sớm các rủi ro công nghệ thông tin và kịp thời xử lý.
Thứ hai, trình độ công nghệ phải phù hợp với trình độ của cán bộ ngân hàng. Điều này đòi hỏi phải có sự khảo sát, bồi dưỡng cán bộ để trình độ công nghệ của cán bộ có thể phát huy hết các tiện ích của công nghệ trong quản lý nợ nói chung và quản lý nợ xấu nói riêng, để không bị lãng phí nguồn lực. Với số lượng chi nhánh, phòng giao dịch rộng khắp, trải đều từ các thành phố lớn đến các vùng sâu, vùng xa kinh tế kém phát triển, trình độ công nghệ của cán bộ không đồng đều đòi hỏi NHNo&PTNT Việt Nam cần có lộ trình đổi mới công nghệ phù hợp với quá trình nâng cao trình độ của cán bộ.
4.3.6. Chú trọng tăng trưởng tín dụng bền vững
Có thể bạn quan tâm!
- Định Hướng Hoạt Động Kinh Doanh Của Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam Trong Giai Đoạn 2015 - 2020
- Hoàn Thiện Việc Nhận Diện, Đánh Giá, Phân Loại Nợ Xấu
- Nâng Cao Hiệu Quả Các Biện Pháp Xử Lý Nợ Xấu Của Ngân Hàng
- Xây Dựng Cơ Chế Xử Lý Nợ Phù Hợp Với Tình Hình Thực Tế
- Quản lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - 24
- Quản lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - 25
Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.
Tăng trưởng tín dụng bền vững là mục đích mà mọi NHTM đều muốn đạt tới. Trong quản lý nợ, tăng trưởng tín dụng bền vững có nghĩa là sẽ tạo ra những khoản vay mới có chất lượng, an toàn, hạn chế nợ xấu phát sinh trong tương lai.
Trong thực tế, đôi khi vì chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng mà các ngân hàng thương mại đã nới lỏng các điều kiện vay vốn dẫn đến nợ xấu có nguy cơ tăng nhanh chóng. Vì thế, khi quản lý nợ xấu phải chú trọng tăng trưởng tín dụng bền vững.
Để NHNo&PTNT Việt Nam đạt được điều này đòi hỏi:
(i) Xây dựng chính sách tín dụng phù hợp
Chính sách tín dụng được xây dựng cho từng thời kỳ phù hợp với chiến lược phát triển và đặc trưng của ngân hàng thể hiện mục tiêu của hoạt động tín dụng, đối tượng khách hàng mục tiêu mà ngân hàng hướng tới, các phương thức tín dụng là thế mạnh của ngân hàng, các chế độ lãi suất mà ngân hàng áp dụng...
Trên cơ sở chính sách này, ngân hàng sẽ ban hành các quy định cụ thể áp dụng tại ngân hàng mình. Chính sách tín dụng như là kim chỉ nam NHTM vận hành hoạt động mang lại lợi nhuận nhưng cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Tuân theo chính sách tín dụng của hệ thống sẽ khiến cho hoạt động của mỗi một chi nhánh, mỗi một cán bộ ngân hàng không bị lạc ra khỏi quỹ đạo của mình.
(ii) Tuân thủ nghiêm chỉnh quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng đã được xây dựng dựa trên những đặc thù của ngân hàng.
Bao gồm các khâu khác nhau trong quy trình thống nhất, từ khi tiếp xúc với khách hàng cho đến khi tất toán khoản vay và lưu trữ thông tin. Tuân thủ quy trình
đối với mọi khoản tín dụng giúp cho ngân hàng hiểu rõ hơn về khách hàng, như về đạo đức, khă năng trả nợ, triển vọng phát triển để ra quyết định tín dụng chính xác để không “cho vay 1 khách hàng tồi nhưng lại từ chối một khách hàng tốt”. Tuân thủ quy trình tức là phải tiếp xúc để tìm hiểu nguyện vọng, hướng dẫn khách hàng về các quy định, thẩm định khách hàng một cách khách quan, chính xác, quyết định cho vay đúng đắn, giám sát khoản tín dụng trước, trong và sau khi cho vay
(iii) Tăng cường kiểm soát nội bộ nhằm kịp thời phát hiện các sai sót, gian lận để có biện pháp xử lý thích hợp.
Do lỗi khách quan hoặc chủ quan, sai sót có thể xảy ra ở một số khâu của quy trình hoặc ở một số cá nhân, tổ chức. Vai trò của kiểm soát nội bộ được phát huy để giúp hệ thống kịp thời sửa chữa những sai sót này, hạn chế rủi ro xảy ra.
(iv) Thực hiện quản trị rủi ro hoạt động. Rủi ro hoạt động vốn khá mới mẻ, xuất phát chủ yếu từ những hạn chế trong nội bộ ngân hàng liên quan đến con người, quy trình hoạt động, hệ thống công nghệ. Để quản trị rủi ro hoạt động thì NHNo&PTNT Việt Nam nên tổ chức lại công tác quản trị rủi ro theo 3 lớp phòng vệ tại bản thân các chi nhánh, tại bộ phận quản trị rủi ro tập trung và độc lập và tại bộ phận kiểm toán, kiểm tra và kiểm soát nội bộ. Để làm tốt công tác này đòi hỏi ngân hàng phải đầu tư về công nghệ và phải có khẩu vị rủi ro được tuyên bố trong từng thời kỳ.
(v) Tiếp tục tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân là thế mạnh của ngân hàng.
Ngân hàng cần tập trung đầu tư cho các chuỗi sản phẩm liên kết các hộ sản xuất và doanh nghiệp, triển khai mở rộng các mô hình liên kết hợp tác 4 nhà: Nhà nông - Doanh nghiệp - Nhà khoa học - Ngân hàng. Triển khai các gói sản phẩm trọn gói cho khách hàng lớn, nhóm khách hàng là các tập đoàn, Tổng công ty lớn nhằm tiết giảm chi phí của sản phẩm, các gói sản phẩm theo mô hình cấp tín dụng theo ngành, lĩnh vực kinh tế, đối tượng đầu tư theo hướng khép kín từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ, xuất khẩu, cho vay theo Nghị định 41/2010/NĐ-CP của Chính phủ, chương trình cho vay đối với chăn nuôi cá tra, cá basa.
Xây dựng các giải pháp mở rộng tín dụng cụ thể cho từng ngành, từng lĩnh vực trong đó xây dựng các chính sách cụ thể về lãi suất, điều kiện cho vay, giới
hạn tín dụng theo ngành nhất là các đối tượng ưu tiên theo chỉ đạo của Chính phủ và NHNN như: Nông nghiệp nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động…
4.3.7. Nâng cao sức mạnh tài chính
Một trong những tồn tại của cơ bản của NHNo&PTNTViệt Nam là qui mô vốn chủ sở hữu quá thấp so với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Điều này hạn chế rất lớn đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như khả năng áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế và khả năng xử lý nợ xấu của ngân hàng. Ngoài ra, năng lực tài chính cũng là điều kiện cần và đủ để ngân hàng có thể vận dụng mô hình quản lý RRTD và coi đây là tiềm lực to lớn để hỗ trợ cho việc vận hành mô hình quản lý rủi ro. Năng lực tài chính của một ngân hàng sẽ quyết định khả năng đầu tư cho công nghệ và nguồn lực của ngân hàng đó. Vì vậy, vấn đề cấp bách hiện nay là từng bước tăng cường tiềm lực tài chính cho ngân hàng trong bối cảnh hội nhập. NHNo&PTNT Việt Nam cần nâng cao hiệu quả hoạt động và phát triển các dịch vụ mới nhằm tăng lợi nhuận từ đó góp phần nâng cao qui mô vốn chủ sở hữu. Trên cơ sở đó tăng trích lập DPRR. NHNo&PTNT Việt Nam cần chủ động thu hút sự đầu tư của các tổ chức tài chính quốc tế, khuyến khích các ngân hàng nước ngoài tham gia liên doanh để tăng vốn hoạt động và thực hiện chuyển giao công nghệ, tiến dần theo hướng phát triển thành NHTM hiện đại, có khả năng cạnh tranh toàn diện trên thị trường tài chính.
4.3.7.1. Nâng cao chất lượng tài sản
Thứ nhất, cần xử lý nợ xấu dứt điểm không để nợ xấu kéo dài trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Theo đó, NHNo&PTNT Việt Nam cần tự thực hiện bằng năng lực của mình thông qua việc thành lập ban chỉ đạo nợ xấu tại Hội sở chính và chi nhánh để đẩy mạnh công tác xử lý và thu hồi nợ. Đối với nợ nhóm 5, biện pháp xử lý chủ yếu là bằng quĩ DPRR, tận thu nợ, bán phát mãi tài sản, khởi kiện... Đối với nợ nhóm 3 và nợ nhóm 4 thì biện pháp xử lý chủ yếu là tự thu nợ, cơ cấu lại các khoản nợ đủ điều kiện theo qui định của ngân hàng, bán phát mại tài sản, khởi kiện. Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể chuyển toàn bộ n ợ xấu sang một công ty chuyên trách tiếp nhận và xử lý nợ xấu. Đối với các khoản
nợ xấu không xử lý được, ngân hàng không chuyển giao cho công ty mua, bán nợ thì Nhà nước cần có cơ chế để ngân hàng có thể chủ động áp dụng cơ cấu lại tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Còn đối với các khoản nợ cho vay chính sách, chỉ định, theo kế hoạch của nhà nước, nợ đã được Chính phủ cho phép khoanh, giãn nhưng khách hàng chưa trả thì được chuyển sang ngân hàng chính sách xã hội hoặc công ty mua, bán nợ của Bộ Tài chính để thu hồi xử lý bằng nguồn ngân sách.
Song song với các biện pháp xử lý nợ xấu, việc thực thi các biện pháp để nâng cao chất lượng tín dụng cũng như các hoạt động kiểm soát tín dụng là một việc làm rất quan trọng để hạn chế phát sinh các khoản nợ không sinh lời. Để tiếp tục kiểm soát chặt chẽ hoạt động tín dụng, việc giao kế hoạch kinh doanh sẽ dựa trên chi tiết từng danh mục cho vay ngay từ đầu năm. Như vậy hoạt động quản lý tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam phải được thực hiện chi tiết đến từng ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh, từng khu vực và từng loại hình sản phẩm. NHNo&PTNT Việt Nam cần tuân thủ tuyệt đối qui trình tín dụng, cương quyết xử lý những biểu hiện vi phạm kỷ luật điều hành, nâng cao chất lượng thông tin, báo cáo trong quản trị điều hành, lựa chọn các khách hàng có dự án chất lượng tốt.
NHNo&PTNT Việt Nam cần chú trọng cải thiện danh mục đầu tư thông qua hoạt động đầu tư góp vốn liên doanh, đầu tư vào các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và nhiều tiềm năng phát triển. Tham gia góp vốn thành lập công ty cổ phần, đầu tư vào các lĩnh vực có tiềm năng phát triển và hiệu quả sinh lời cao. Các hoạt động đầu tư này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng, đa dạng cơ cấu tài sản có, lành mạnh hoá bảng tổng kết tài sản.
4.3.7.2. Nâng cao khả năng sinh lời và khả năng thanh toán
Chuyển dịch tài sản có theo hướng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản, tăng tỷ trọng tài sản Có sinh lời, đồng thời giảm thiểu rủi ro. NHN o&PTNT Việt Nam cũng cần tăng khả năng thanh khoản trên cơ sở tạo ra sự cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, tăng sự phù hợp về cấu trúc giữa tài sản Có và tài sản Nợ, cấu trúc dòng tiền, tính đa dạng trong cấu trúc tài sản Có và khả năng chuyển đổi rủi ro. Để nâng cao khả năng thanh khoản, trong thời gian tới NHNo&PTNT Việt Nam cần tập trung điều chỉnh nhằm tăng cơ cấu nguồn vốn trung và dài hạn bằng các biện pháp như triển khai phát hành trái phiếu dài hạn tăng vốn cấp 2, trái
phiếu tăng vốn bằng VNĐ, giấy tờ có giá dài hạn USD, huy động tiết kiệm dự thưởng và nâng cao hiệu quả công tác quảng bá các sản phẩm huy động vốn trung và dài hạn tới khách hàng.
NHNo&PTNT Việt Nam cần chú trọng cải thiện công tác quản lý thanh khoản thông qua việc yêu cầu Hội đồng quản lý Nợ - Có thực hiện đúng chức năng là cơ quan đảm bảo thanh khoản toàn hệ thống. Bộ phận quản lý sổ ngân hàng sẽ thay mặt cho Hội đồng quản lý Nợ - Có trực tiếp thực hiện giao dịch, đảm bảo mục tiêu quản lý thanh khoản và tuân thủ hạn mức do Hội đồng quản lý Nợ - Có qui định; Bộ phận hỗ trợ Hội đồng quản lý Nợ - Có sẽ thực hiện phân tích rủi ro thanh khoản, phân tích với bộ phận quản lý rủi ro thị trường đề xuất với Hội đồng quản lý Nợ - Có hạn mức, giới hạn thanh khoản, các biện pháp giảm thiểu rủi ro thanh khoản để đạt mục tiêu đề ra.
4.3.7.3. Đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng
Hiện tại dịch vụ ngân hàng là một khái niệm chưa thống nhất. Theo nghĩa hẹp thì dịch vụ ngân hàng là các dịch vụ ngoài tín dụng và đầu tư của ngân hàng. Còn theo nghĩa rộng thì dịch vụ ngân hàng bao gồm tất cả các hoạt động mà ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế. Cách tiếp cận của tác giả là các cần đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng theo nghĩa rộng, tức là tất cả các hoạt động mà ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế.
Việc phát triển và đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng sẽ giúp cho NHNo&PTNT Việt Nam phân tán và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Thực tế đã chứng minh thu dịch vụ có tính ổn định cao, đảm bảo an toàn trong hoạt động và hiệu quả mang lại cao nhất.
- NHNo&PTNT Việt Nam cần nhận thức được tầm quan trọng của việc thay đổi kết cấu dịch vụ theo hướng đa dạng hoá sản phẩm, giảm dần dịch vụ nhận tiền gửi, cho vay truyền thống, đi vào các dịch vụ phi tín dụng và đặc biệt là các dịch vụ dựa trên nền công nghệ thông tin. NHNo&PTNT Việt Nam xây dựng và phát triển phòng nghiên cứu và phát triển sản phẩm, đưa ra nhiều sản phẩm mới có sự khác biệt với các ngân hàng khác để người tiêu dùng có nhiều lựa chọn hơn và không làm người tiêu dùng khó khăn khi đưa ra quyết định lựa chọn sản phẩm. Việc này cũng sẽ đem lại thu nhập cao cho ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Việt Nam và có thể thực hiện được vì cơ hội khai thác tiềm năng của ngành còn rất lớn.
- Chú trọng đến các kênh phân phối để có thể đưa ra sản phẩm đến tất cả các nhóm khách hàng. Việc phát triển các kênh phân phối rất quan trọng. Kênh phân phối cần phát triển theo hướng phân phối đa kênh. Đối với kênh phân phối truyền thống, ngoài mở rộng mạng lưới các chi nhánh, cần mở các phòng giao dịch với mô hình gọn, nhẹ, mở rộng các kênh phân phối qua các đại lý đối với các nghiệp vụ thường xuyên phát sinh và nghiệp vụ đơn giản như chi trả kiều hối, phát hành thẻ ATM, thanh toán. Bên cạnh đó, chú trọng phát triển các kênh phân phối có ứng dụng công nghệ: (i) Phát triển loại hình ngân hàng qua máy tính và ngân hàng tại nhà nhằm khai tiềm năng phát triển internet; (ii) Phát triển loại hình ngân hàng qua điện thoại. Đây là kênh phân phối phù hợp với mặt bằng dân trí của Việt Nam hiện thời, không đòi hỏi khách hàng phải biết sử dụng internet, ít tốn chi phí hơn, tiện lợi hơn vì khách hàng có thể thực hiện giao dịch tại bất cứ thời gian và địa điểm nào; (iii) Phát triển các kênh bán chéo sản phẩm để có thể đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng nhiều hơn.
- Tăng cường đưa thông tin đến khách hàng bằng các phương thức phù hợp với trình độ tiếp nhận thông tin. Cách nhanh nhất là giới thiệu đến toàn thể nhân viên của ngân hàng về dịch vụ mới nhằm thay đổi sâu sắc nhận thức cán bộ nhân viên đối với sự sống còn của NHNo&PTNT Việt Nam, trong việc phát triển sản phẩm mới, tăng hiểu biết về sản phẩm, từ đó tăng tính chuyên nghiệp trong giới thiệu sản phẩm.
- Trang bị công nghệ hiện đại để đẩy nhanh tốc độ giao dịch, tạo cơ sở cho việc đa dạng hoá dịch vụ và cần khai thác hiệu quả công nghệ. Do vậy cần phát huy hiệu quả công nghệ thông tin bằng đào tạo nhân lực có khả năng khai thác tối đa phần mềm ngân hàng hiện có. Đảm bảo tính thanh khoản, bảo mật và an toàn trong kinh doanh, đặc biệt là những sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử. Tăng cường xử lý tự động trong tất cả qui trình tiếp nhận yêu cầu khách hàng, thẩm định và xử lý thông tin, giảm thời gian giao dịch của khách hàng. Chuẩn hoá công nghệ đểcó thể liên kết giữa các ngân hàng khi sử dụng dịch vụ. Chuẩn bị sẵn hệ thống dự phòng cho các giao dịch dự phòng để đề phòng các sự cố có thể xảy ra.
- Tăng cường hợp tác quốc tế và liên kết trong nước bằng hai cách: tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế đặc biệt là hỗ trợ kỹ thuật nhằm hiện đại hoá ngân hàng và kêu gọi sự đầu tư của các ngân hàng nước ngoài với các chính sách ưu đãi phù hợp. Ngoài ra cần phát triển các liên kết giữa các ngân hàng trong nước không phân biệt hình thức sở hữu để khai thác hiệu quả cơ sở hạ tầng của các ngân hàng, giải quyết được vấn đề vốn cho đầu tư công nghệ mới và phát triển mạng lưới các điểm giao dịch của mạng lưới phân phối truyền thống.
4.4. CÁC GIẢI PHÁP ĐIỀU KIỆN VÀ HỖ TRỢ
4.4.1. Nhóm giải pháp từ Nhà nước
4.4.1.1. Cần hoàn thiện khung pháp lý và nâng cao quyền lực và nguồn lực cho công ty mua, bán nợ quốc gia (VAMC)
Nhà nước can thiệp trực tiếp vào xử lý nợ xấu thông qua công ty mua, bán nợ nhưng việc xử lý của công ty này phải thực hiện theo nguyên tắc của thị trường. Theo đó, tài sản đảm bảo, giá trị còn lại của công ty... phải có cơ chế định giá phù hợp và xác định theo giá thị trường tại thời điểm xử lý; nợ xấu được mua lại với giá rẻ hơn giá trị sổ sách vì doanh nghiệp và ngân hàng tạo ra nợ xấu đều gánh một phần hậu quả do quản trị không hiệu quả. Ngoài ra, các công ty mua, bán nợ chỉ tập trung mua những khoản nợ không quan trọng, có tác động thúc đẩy kinh tế, tạo sức lan toả. Theo kinh nghiệm của hầu hết các công ty quản lý tài sản ở các nước Châu Á như Inđônesia, Malaysia, Hàn Quốc và Thái Lan, loại hình công ty này cần được trao cho một số quyền đặc biệt để hoạt động một cách dễ dàng như: được cắt giảm một số thủ tục pháp lý khi xử lý tài sản đảm bảo, không cần xin ý kiến của bên đi vay trước khi ký kiểm nghiệm mua, bán khoản vay... Hoạt động của công ty mua, bán nợ quốc gia chỉ thực sự hiệu quả, nghĩa là nợ được xử lý triệt để, tránh hiện tượng chỉ “đảo nợ” giữa ngân hàng và công ty mua, bán nợ, khi có các cơ chế pháp lý để tài sản đảm bảo dễ dàng thanh khoản.
Do tính phức tạp của các khoản nợ xấu trong ngân hàng, trong bối cảnh áp lực xã hội rất lớn về vấn đề giải trình thì vấn đề đặt ra là thành lập công ty mua, bán nợ trực thuộc NHNN hay Công ty mua, bán nợ quốc gia (AMC) phải đủ quyền lực, được hỗ trợ bởi các chuyên gia giỏi về lĩnh vực này, với những bước đi hợp lý, với sự phát triển của thị trường mua, bán nợ Việt Nam.