Vai Trò Của Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa Trong Nền Kinh Tế

quản lý các bộ phận cũng thường tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất. Phần lớn những người chủ doanh nghiệp đều không được đào tạo qua một khóa quản lý chính quy nào, thậm chí có người còn chưa qua một khóa đào tạo nào. Mặc dù vậy, họ thường không quan tâm đến việc đào tạo để nâng cao năng lực quản lý.

Trình độ tay nghề của người lao động thấp

Các chủ DNNVV thường không đủ khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong việc thuê những người lao động có tay nghề cao do hạn chế về khả năng tài chính. Bên cạnh đó, định kiến của người lao động cũng như của những bạn bè, người thân của họ về khu vực này vẫn còn khá lớn vì họ cho rằng làm việc trong các doanh nghiệp này rủi ro mất việc lớn nhưng đồng thời lương thấp, không thăng tiến được…. Người lao động ít được đào tạo, đào tạo lại do kinh phí hạn hẹp hoặc người chủ không muốn đào tạo người lao động vì vậy trình độ thấp và kỹ năng làm việc thấp. Ngoài ra, sự không ổn định khi làm việc cho các DNNVV, cơ hội để phát triển thấp tại các doanh nghiệp này cũng tác động làm cho nhiều lao động có kỹ năng không muốn làm việc cho khu vực này.

Khả năng về công nghệ thấp do không đủ tài chính cho nghiên cứu triển khai

Nhiều DNNVV cho dù có những sáng kiến công nghệ nhưng không đủ tài chính cho việc nghiên cứu triển khai nên không thể hình thành công nghệ mới hoặc bị các doanh nghiệp lớn mua với giá rẻ. Tuy nhiên, các DNNVV rất linh hoạt trong việc thay đổi công nghệ sản xuất do giá trị của dây chuyền công nghệ thường thấp và họ thường có những sáng kiến đổi mới công nghệ phù hợp với quy mô của mình từ những công nghệ cũ và lạc hậu. Điều này thể hiện tính linh hoạt trong đổi mới công nghệ và tạo nên sự khác biệt về sản phẩm để các DNNVV có thể tồn tại trên thị trường.

Khó khăn trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh

Các DNNVV Việt Nam thường thuê mặt bằng với diện tích hạn chế và cách xa trung tâm hoặc sử dụng những diện tích đất riêng của mình làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, các doanh nghiệp này gặp khó khăn trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh khi quy mô doanh nghiệp được mở rộng.

Khả năng tiếp cận thị trường kém

Các DNNVV tiếp cận thị trường kém đặc biết đối với thị trường nước ngoài. Nguyên nhân chủ yếu là do các DNNVV thường là những doanh nghiệp mới hình thành, khả năng tài chính cho các hoạt động marketing (những việc làm để tìm hiểu khách hàng của mình là những ai, họ cần gì và muốn gì, và làm thế nào để đáp ứng nhu cầu của họ đồng thời tạo ra lợi nhuận) rất hạn chế và họ chưa có nhiều khách hàng truyền thống. Thêm vào đó, quy mô thị trường của các doanh nghiệp này thường bó hẹp trong phạm vi địa phương, việc mở rộng ra các thị thường mới là rất khó khăn.

Các DNNVV khó tiếp cận nguồn vốn ngân hàng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Do đó họ thường sử dụng nguồn vốn vay từ bạn bè, người thân. Nguyên nhân là do các DNNVV thiếu tài sản đảm bảo, sổ sách chứng từ kế toán không rò ràng, minh bạch, chưa có uy tín trên thị trường.

1.1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế

Quản lý nợ xấu các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - chi nhánh tỉnh Quảng Bình - 3

Sự tồn tại của DNNVV trong nền kinh tế là một tất yếu khách quan đối với quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Chiếm đến 95% số lượng doanh nghiệp, DNNVV có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của đất nước như sau:

Giải quyết việc làm và thu nhập cho người lao động

Các DNNVV thường hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến nông sản, xây dựng và giao thông vận tải lại thường sử dụng công nghệ lạc hậu, nửa cơ giới, nửa thủ công do vậy khả năng thu hút lao động của các doanh nghiệp này là rất lớn.

Giúp ổn định nền kinh tế

Ở phần lớn các nền kinh tế, các DNNVV là những nhà thầu phụ cho các DN lớn. DNNVV tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng vì các doanh nghiệp này thường chỉ chuyên sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. Vì thế, DNNVV được ví là thanh giảm sốc cho nền kinh tế.

Tạo ra môi trường cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển có

hiệu quả hơn

Sự tham gia của rất nhiều các nhà DNNVV vào sản xuất kinh doanh, làm cho số lượng và chủng loại sản phẩm sản xuất tăng lên rất nhanh. Kết quả là làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường, tạo sức ép buộc các nhà doanh nghiệp thường xuyên đổi mới mặt hàng, giảm chi phí, tăng chất lượng để thích ứng với môi trường mới để doanh nghiệp tiếp tục tồn tại và phát triển. Những yếu tố đó có tác động lớn làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn.

Góp phần vào đô thị hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công

nghiệp hoá

Sự phát triển của các DNNVV ở nông thôn sẽ thu hút những người lao động chưa có việc làm và có thể thu hút lượng lớn lao động thời vụ vào hoạt động sản xuất kinh doanh, rút dần lao động làm nông nghiệp sang làm công nghiệp hoặc dịch vụ, nhưng vẫn sống tại địa phương, không phải di chuyển đi xa. Đồng hành với nó là hình thành những khu vực khá tập trung các cơ sở công nghiệp và dịch vụ ngay tại nông thôn, hình thành các đô thị nhỏ đan xen giữa những làng quê, thực hiện quá trình đô thị hoá phi tập trung.

Hình thành và phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động

Cùng với việc phát triển các DNNVV là sự xuất hiện ngày càng nhiều hơn các nhà kinh doanh sáng lập. Đây sẽ là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà kinh doanh làm quen với môi trường kinh doanh. Bắt đầu từ kinh doanh quy mô nhỏ và thông qua điều hành, quản lý quy mô vừa và nhỏ, một số nhà doanh nghiệp trưởng thành lên thành những nhà doanh nghiệp lớn, tài ba. Đây là lực lượng rất cần thiết góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh ở những nước đang phát triển như Việt Nam.

DNNVV có khả năng khai thác, phát huy các nguồn lực và tiềm năng tại

chỗ của các địa phương, các nguồn tài chính trong dân

Do tính chất nhỏ bé, quy mô vốn ban đầu không nhiều nên DNNVV có thể được thành lập ở tất cả địa phương, tận dụng được những lợi thế ngay tại chỗ, giảm chi phí sản xuất, tránh gây lãng phí nguồn lực sẵn có. Hầu hết các DNNVV đều tận

dụng nguồn lao động của chính địa phương mà doanh nghiệp đang hoạt động. Tiềm lực tài chính trong dân rất mạnh, tuy nhiên lại nằm rải rác, không tập trung thành những khoản đủ để đáp ứng nhu cầu vốn lớn. Các DNNVV thành lập với yêu cầu về vốn không nhiều, do đó được hình thành dễ dàng, nằm phân tán tại khắp các địa phương, đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn từ dân cư. DNNVV tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi này, đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh, tạo ra giá trị mới, từ đó làm gia tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính.

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm về tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng thương mại

1.1.2.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng

Trong nền kinh tế hàng hoá, trong cùng một thời gian luôn có một số người tạm thời thừa vốn, có vốn tạm thời nhàn rỗi và có nhu cầu cho vay. Bên cạnh đó luôn có một số người tạm thời thiếu vốn, có nhu cầu đi vay. Hiện tượng này làm nảy sinh mối quan hệ kinh tế mà nội dung của nó là vốn được dịch chuyển từ nơi tạm thời thừa sang nơi thiếu với điều kiện hoàn trả vốn và lãi tiền vay là lợi nhuận thu được do sử dụng vốn vay. Đây chính là quan hệ tín dụng.

Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng với một bên là các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức hoặc các thành phần khác trong nền kinh tế. Nó không phải là quan hệ dịch chuyển vốn trực tiếp từ nơi tạm thời thừa vốn sang nơi tạm thời thiếu vốn mà là quan hệ dịch chuyển vốn gián tiếp thồn qua một tổ chức trung gian, đó chính là ngân hàng. Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng, đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn và là quan hệ bình đẳng cả hai bên cùng có lợi. [15]

Theo Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam năm 2010 số 47/2010/QH12 do Quốc Hội ban hành: “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, các nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”.[15]

Theo đó quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp và ngân hàng có thể hiểu như sau:

- Doanh nghiệp phải cam kết hoàn trả vốn gốc và lãi với thời gian xác định.

- Doanh nghiệp phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được thoả thuận với ngân hàng, không trái với quy định của pháp luật và các quy định khác của ngân hàng cấp trên.

- Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án có hiệu quả. Phương án hoạt động của doanh nghiệp đảm bảo khả năng thu hồi vốn và lãi của ngân hàng. Mặt khác, để đảm bảo đòi được nợ, các ngân hàng thường yêu cầu tài sản đảm bảo với mỗi khoản vay.

1.1.2.2. Đặc điểm về tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng thương mại

Quy mô và tốc độ tăng trưởng tín dụng ngày càng cao

Các DNNVV ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Song vấn đề nổi lên hiện nay đó là giải quyết vấn đề vốn cho DNNVV. Trên thực tế các NHTM đang cạnh tranh mạnh mẽ để mở rộng cho vay đối với loại hình DNNVV, đặc biệt trong nhu cầu vốn tín dụng để mở rộng sản xuất kinh doanh. Báo cáo gần đây của NHNN cho biết hiện nay các NHTM xem DNNVV là đối tượng khách hàng tiềm năng của mình. Doanh số và dư nợ cho vay DNNVV của ngành ngân hàng liên tục tăng qua các năm. Tuy nhiên, cũng còn một vấn đề tồn tại đó là việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng của các DN gặp nhiều trở ngại do thiếu tài sản thế chấp, thủ tục phức tạp, lãi suất cao…

Nợ ngắn hạn đối với DNNVV chiếm tỷ trọng lớn

Các DNNVV thường có nhu cầu vay vốn ngân hàng để bổ sung vốn lưu động, đầu tư vào các dự án có quy mô nhỏ, vì tiềm lực tài chính cũng như khả năng quản lý chưa thực sự đủ mạnh để đảm nhiệm các dự án có quy mô lớn.

DNNVV vay vốn của ngân hàng thường rủi ro hơn các DN lớn

Xuất phát từ các đặc điểm chung của các DNNVV là tình trạng không minh bạch về tài chính, vốn tự có thấp, khả năng tiếp cận thông tin và thị trường hạn chế, thiếu tài sản thế chấp, khả năng chống đỡ rủi ro còn thấp nên rủi ro tín dụng đối với DNNVV là cao hơn nhiều so với khi cho vay các doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên, tính

chất của rủi ro đó thường nhỏ và không mang tính hệ thống, chỉ ảnh hưởng đến lợi nhuận chứ khó gây phá sản cho ngân hàng vì các khoản vay của DNNVV thường là khoản vay nhỏ và thường đi kèm với tài sản đảm bảo đề phòng khi gặp rủi ro ngân hàng sẽ phát mại tài sản đảm bảo để thu hồi khoản nợ.

Khả năng sinh lời trong tín dụng đối với DNNVV cao

Ngân hàng có thể thu được nguồn lợi lớn từ việc cho vay đối với DNNVV.

Lãi suất đối với cho vay DNNVV thường cao hơn so với cho vay doanh nghiệp lớn.

1.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa

Trong cơ chế cạnh tranh hiện nay, khi mà tất cả các loại hình doanh nghiệp đang phát huy hiệu quả kinh doanh ở mức cao nhất thì các DNNVV lại càng phải nỗ lực hơn để đáp ứng những yêu cầu mới, sản phẩm cần tốt hơn, đa dạng hơn, thiết bị cần hiện đại hơn, máy móc, công nghệ cần tiên tiến hơn và tất yếu vốn phải cần nhiều hơn. Như vậy, suy cho cùng thì vốn vẫn là điều kiện tiên quyết, quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các DNNVV lại không đủ vốn để đáp ứng những yêu cầu mới đó, nên tín dụng ngân hàng là kênh huy động vốn ngày càng có vai trò quan trọng hơn, cần thiết hơn đối với các DNNVV, vai trò đó được thể hiện trên một số mặt sau:

Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế hỗ trợ các DNNVV phát triển, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, bất cứ ai cũng muốn đồng vốn của mình sinh lời. Những người có vốn tạm thời nhàn rỗi sẵn sàng cho vay số tiền đó để kiếm lãi, còn những nhà doanh nghiệp cũng vì mục đích sinh lợi của vốn mà cần vay thêm tiền để mở rộng sản xuất. Với tư cách là trung gian dẫn vốn, ngân hàng đã giải quyết mâu thuẫn đó. Với hoạt động đi vay để cho vay, ngân hàng đã tạo cơ hội cho các chủ DNNVV muốn mở rộng sản xuất kinh doanh hay thực hiện một dự án kinh doanh có thể vay vốn để thực hiện.

Tín dụng ngân hàng tác động điều tiết sự di chuyển vốn đầu tư làm bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận thúc đẩy sự phát triển của các DNNVV, tín dụng ngân hàng luôn chuyển hướng đầu tư vào những doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao, hạn

chế hoặc không đầu tư vào những DNNVV có tỷ suất lợi nhuận thấp. Qua đó tín dụng ngân hàng làm thay đổi quan hệ về cung - cầu hàng hoá và thay đổi cơ cấu ngành nghề kinh tế.

Tín dụng ngân hàng góp phần tăng nguồn vốn, nâng cao khả năng cạnh

tranh của các DNNVV

Một trong những quy luật khách quan của cơ chế thị trường là cạnh tranh và quy luật này ngày càng quan trọng, quyết định rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng. Tuy nhiên do những đặc điểm, tính chất của mình, DNNVV gặp không ít những khó khăn trong việc phát triển tạo thị phần, tạo niềm tin, tạo hình ảnh trong khi vị thế của các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước đã ổn định và có chỗ đứng trên thị trường, vì vậy xu hướng hiện nay của các DNNVV là tìm cách liên doanh, liên kết nhằm bổ sung và hoàn thiện những hạn chế của mình, đặc biệt là hạn chế về vốn.

Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho các DNNVV tiếp cận các nguồn

vốn từ nước ngoài

Bên cạnh việc kích thích các tổ chức kinh tế và cá nhân trong nước thực hiện tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn tiền tệ, tín dụng ngân hàng còn thu hút nguồn vốn nước ngoài dưới nhiều hình thức như trực tiếp vay bằng tiền, bảo lãnh cho các DNNVV mua thiết bị trả chậm, sử dụng hạn mức L/C…. Như vậy quan hệ quốc tế của các DNNVV đã được mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV, đặc biệt là các DNNVV hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.

Thông qua nguồn vốn vay này, DNNVV xác lập một cơ cấu vốn tối ưu đảm bảo kết hợp hiệu quả giữa nguồn đi vay với nguồn vốn tự có để sản xuất những sản phẩm có giá thành thấp hơn, nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng hàng hoá và được thị trường chấp nhận. Có như vậy thì DNNVV mới đạt mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của mình.

Tín dụng ngân hàng góp phần tích cực hình thành đồng bộ hệ thống thị trường các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” cho các DNNVV

Các DNNVV có vốn lưu động thấp so với nhu cầu vốn cần thiết của doanh nghiệp. Nguồn vốn để mua vật tư hàng hoá dự trữ cho sản xuất kinh doanh (kể cả trong nước và ngoài nước) chủ yếu được bù đắp bằng vốn tín dụng ngân hàng. Mặt khác tín dụng ngân hàng cũng tác động mạnh mẽ vào việc tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp thông qua việc mở rộng tín dụng tiêu dùng; cho vay hoặc bảo lãnh để các tổ chức kinh tế, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực lưu thông mua bán hàng hoá. Tuy nhiên, ngân hàng chỉ tập trung cho vay những đối tượng hàng hoá có chất lượng cao, có sức cạnh tranh tốt, qua đó thúc đẩy việc xác lập cơ cấu kinh tế mới theo hướng hiện đại.

Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của

các DNNVV

Tín dụng ngân hàng với cơ chế hoạt động cơ bản là “đi vay để cho vay”; “vay có hoàn trả theo thời hạn quy định cả vốn gốc và có lãi”; nếu quá hạn phải chịu lãi suất cao, đã thúc đẩy các DNNVV nâng cao hiệu quả kinh tế của việc sử dụng vốn.

Để có tiền cho các DNNVV vay, ngân hàng phải tiến hành huy động vốn và có quy định thời hạn trả vốn rò ràng, như vậy ngân hàng cũng phải cân đối giữa nguồn huy động và nguồn cho vay sao cho phù hợp, đảm bảo tính thanh khoản cho ngân hàng. Vì vậy, khi ký kết hợp đồng tín dụng, ngân hàng đã cân nhắc nguồn có khả năng giải ngân và thời hạn cần thiết để thu hồi vốn. Cho nên đến thời hạn trả nợ, dù DNNVV làm ăn có lãi hay không cũng phải thực hiện nhiệm vụ trả nợ của mình. Do đó bắt buộc hoạt động kinh doanh của DNNVV phải sinh lời.

Mặt khác, thông qua cho vay, vốn tín dụng được cung cấp kịp thời tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh và nâng cao trách nhiệm sử dụng vốn của các DNNVV. Việc quản lý vốn thông qua quá trình hạch toán kinh tế góp phần củng cố chế độ hạch toán kinh tế trong các DNNVV thêm vững chắc.

Góp phần nâng cao trình độ công nghệ khoa học, chất lượng và mẫu mã sản phẩm

Với đặc điểm nguồn vốn thấp, các DNNVV khó đầu tư được công nghệ sản

xuất tiên tiến, hiện đại để cải thiện chất lượng và mẫu mã sản phẩm. Vì vậy, nguồn

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 01/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí