- Du lịch văn hoá: là loại hình du lịch nhằm nâng cao hiểu biết cho du khách về lịch sử, kiến trúc, kinh tế, xã hội, lối sống và phong tục tập quán ở nơi họ đến thăm. Địa điểm khách du lịch tìm đến thăm quan của loại hình này là các viện bảo tàng, các di tích lịch sử văn hóa như đền, chùa, các lễ hội dân gian…
1.1.3.2. Phân loại theo mục đích chuyến đi:
- Du lịch tham quan: là một hoạt động của con người để nâng cao nhận thức về mọi mặt: văn hóa, xã hội,...
- Du lịch giải trí: là loại hình du lịch nảy sinh do nhu cầu thư giãn để phục hồi sức khỏe (thể chất, tinh thần) sau những ngày lao động sản xuất.
- Du lịch khám phá: là loại hình du lịch nhằm mục đích tìm hiểu điều mới lạ về thế giới xung quanh, bao gồm: du lịch tìm hiểu, du lịch mạo hiểm.
- Du lịch thể thao không chuyên: là loại hình du lịch đáp ứng lòng ham mê thể thao của con người như săn bắn, câu cá, chơi golf,..
- Du lịch tôn giáo: là các chuyến đi nhằm thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng của con người theo các tôn giáo.
- Du lịch nghiên cứu: là loại hình du lịch kết hợp lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành với điểm đến là các vườn quốc gia, bảo tàng....
- Du lịch chữa bệnh: là hình thức du lịch để phòng ngừa hoặc chữa trị một căn bệnh nào đó về thể xác và tinh thần.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý nhà nước về hoạt động du lịch trên địa quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội - 1
- Quản lý nhà nước về hoạt động du lịch trên địa quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội - 2
- Cơ Sở Lý Luận Và Kinh Nghiệm Thực Tiễn Của Quản Lý Nhà Nước Về Hoạt Động Du Lịch
- Phân Cấp Quản Lí Nhà Nước Về Hoạt Động Du Lịch Cấp Quận
- Tổ Chức Hoạt Hoạt Động Du Lịch Trên Địa Bàn
- Kinh Nghiệm Quản Lý Nhà Nước Về Hoạt Động Du Lịch Và Bài Học Đối Với Quận Hoàn Kiếm, Thành Phố Hà Nội
Xem toàn bộ 140 trang tài liệu này.
- Du lịch kinh doanh: là loại hình du lịch nhằm mục đích thực hiện một nhiệm vụ công tác hoặc nghề nghiệp nào đó.
1.1.3.3. Phân loại theo lãnh thổ hoạt động
- Du lịch quốc tế: là loại hình du lịch mà quá trình thực hiện nó có sự giao tiếp với người nước ngoài, một trong hai phía hoăc là du khách, hoặc là nhà cung ứng dịch vụ phải sử dụng ngoại ngữ để giao tiếp. Về mặt không gian, địa lý, du khách phải đi ra khỏi đất nước của mình và sử dụng phương tiện thanh toán là đồng ngoại tệ.
- Du lịch trong nước: là tất cả các hoạt động tổ chức phục vụ cho du khách ở trong nước đi nghỉ ngơi, tham quan các đối tương du lịch trong phạm vi của đất nước mình, chi phí bằng đồng nội tệ.
1.1.3.4. Phân loại theo đặc điểm địa lý của điểm du lịch
- Du lịch miền biển: là loại hình du lịch gắn liền với biển, thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt động tắm biển, thể thao biển (bóng chuyền bãi biển, lướt ván).
- Du lịch núi: là loại hình du lịch có thể phát triển quanh năm, thuận lợi để tổ chức nghỉ mát vào mùa hè ở các vùng xứ nóng, và nghỉ đông ở các vùng xứ lạnh với các hoạt động thể thao mùa đông (trượt tuyết, trượt băng).
- Du lịch đô thị: là các vùng nằm ở các thành phố, các trung tâm đô thị có các công trinh kiến trúc lớn, các khu thương mại, các đầu mối giao thông, các công viên giải trí… Du khách không chỉ là người sống ở nông thôn mà cả ở các thành phố khác cũng đên để chiêm ngưỡng, mua sắm.
- Du lịch thôn quê: Là loại hình du lịch khá phổ biến hiện nay, là xu hướng du lịch để tái tạo sức khỏe bằng việc tận hưởng không gian thanh bình tĩnh lặng giữa thiên nhiên đã khiến họ về những miền quê.
Có rất nhiều cách phân loại các hình thức du lịch, nhưng trong phạm vi nghiên cứu Luận văn, tác giả tiếp cận cách phân loại hoạt động du lịch theo môi trường tài nguyên với hai hình thức: du lịch tự nhiên và du lịch văn hóa.
1.1.4. Vai trò của hoạt động du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội
Vai trò của hoạt động du lịch được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau: đối với du khách, đối với người dân địa phương, đối với các nhà kinh doanh, đối với nền kinh tế. Hoạt động du lịch có vai trò quan trọng:
Một là, góp phần phát triển kinh tế và tăng trưởng bền vững. HĐDL có quan hệ với các hoạt động khác và tạo thu nhập quan trọng cho ngân sách của quốc gia và địa phương có tuyến điểm du lịch. HĐDL dựa trên các tài nguyên du lịch phong phú, các giá trị về di sản văn hóa, âm nhạc, đời sống dân cư và môi trường, khí hậu. Các sản phẩm du lịch được tiêu dùng ở nơi sản xuất, đồng thời
tạo nên khả năng sản xuất các sản phẩm được tiêu thụ bởi du lịch và du lịch cần đáp ứng. Từ đó, HĐDL sẽ tạo ra thu nhập qua hệ thống cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Bên cạnh đó, HĐDL phát triển góp phần kích thích đầu tư trong nước và ngoài nước, qua đó làm tăng tổng cầu và tăng trưởng kinh tế địa phương. Chính vì vậy, phát triển HĐDL không chỉ mang lại nguồn thu cho ngành du lịch mà còn tác động làm gia tăng nguồn thu ở các ngành khác.
Hai là, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. HĐDL là một hoạt động phức tạp, trong đó chi tiêu du lịch liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều ngành kinh tế và tác động qua lại lẫn nhau. Do đó, khi HĐDL phát triển, nó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và góp phần làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế. HĐDL phát triển sẽ góp phần gia tăng giá trị dịch vụ, đồng thời tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong GDP sẽ giảm dần và tỷ trọng khu vực dịch vụ sẽ tăng lên.
Ba là, tạo việc làm, tăng thu nhập. Sự phát triển HĐDL góp phần tăng qui mô việc làm, thu nhập của người dân và xã hội. HĐDL sử dụng nhiều lao động, do đó, phát triển HĐDL sẽ góp phần tích cực tạo việc làm cho một lực lượng lao động xã hội và cải thiện đời sống cho người dân địa phương. HĐDL có nhu cầu về lao động cao cả về lao động trực tiếp (trực tiếp phục vụ du lịch, làm việc trực tiếp trong ngành du lịch thường bao gồm những công việc có liên hệ trực tiếp với khách như người làm việc tại các doanh nghiệp lữ hành, cơ sở lưu trú, cơ sở kinh doanh du lịch, điểm du lịch, vận chuyển du lịch, nhà hàng, bán lẻ và các cơ sở giải trí), cũng như lao động gián tiếp (từ các hoạt động kinh tế khác, làm việc cho các cơ sở cung ứng cho HĐDL, như dịch vụ giặt là, cung cấp thực phẩm, bán buôn, kế toán, các cơ quan nhà nước, các công ty xây dựng và sản xuất hàng xuất khẩu và hàng sử dụng trong ngành du lịch gồm sản xuất sắt thép, gỗ và xăng dầu).
Bốn là, liên kết vùng và phát triển kinh tế đối ngoại. HĐDL còn thông qua các hình thức liên kết giữa các tỉnh, giữa các vùng, giữa các nước để mở các tour
du lịch. Du khách không chỉ dừng lại ở một điểm du lịch mà có nhu cầu tham quan các điểm du lịch ở các vùng, miền khác nhau. Do đó, để cạnh tranh và phát triển, các tỉnh, thành phố sẽ mở rộng liên kết với nhau và liên kết với các vùng, các nước để đa dạng các tour du lịch.
1.1.5. Tác động của hoạt động du lịch
1.1.5.1.Tác động tích cực
Một là, HĐDL phát triển góp phần hỗ trợ cho công nghiệp và nông nghiệp, góp phần vào sự tăng trưởng bền vững. Có thể thấy, HĐDL phát triển góp phần giải quyết các vấn đề xã hội như việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, san sẻ thu nhập cho các nhóm xã hội (người nghèo), vì đa phần du khách là những người có thu nhập cao. Chính điều này có tác dụng lớn trong việc giảm áp lực trong việc giải quyết việc làm cho chính quyền địa phương, giảm tình trạng thất nghiệp, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đối với những nơi lạc hậu, xa xôi, hẻo lánh, kinh tế khó khăn không thích hợp phát triển công nghiệp thì phát triển HĐDL sẽ có ý nghĩa quan trọng đến việc xóa đói, giảm nghèo. Đối với các đô thị, ở những nơi tỷ trọng nông nghiệp giảm, khi phát triển HĐDL sẽ có tác dụng hỗ trợ, góp phần thúc đẩy những hộ sản xuất nghề nông chuyển biến mạnh mẽ sang chuyên canh các sản phẩm phục vụ cho du lịch, nhờ đó thu nhập gia tăng, nhiều hộ đã thoát nghèo. Đồng thời, sự phát triển của HĐDL kéo theo các ngành có liên quan phát triển, sẽ làm gia tăng nguồn thu của nơi đón tiếp và gia tăng nguồn thu thuế.
Hai là, đa dạng hóa ngành nghề và việc làm. HĐDL với những hoạt động phong phú của nó sẽ tạo ra việc làm, tăng thu nhập và các cơ hội phát triển cho người nghèo tại cộng đồng của họ. Phát triển HĐDL ở các vùng nông thôn, khó khăn không chỉ góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường mà còn giảm thiểu tình trạng di cư về đô thị lớn làm công, ảnh hưởng các cân đối vĩ mô và quản lý đô thị. Số lao động cần thiết trong dịch vụ bổ sung có thể tăng lên nhiều lần, nếu các dịch vụ này được nâng cao về chất lượng và phong phú về
chủng loại. Chính vì vậy, phát triển HĐDL được coi là một trong những phương thức hữu hiệu để giải quyết nạn thất nghiệp hiện nay.
Ba là, thúc đẩy liên kết giữa các địa phương, quốc gia, vùng. HĐDL tác động làm hình thành các mối quan hệ kinh tế giữa các tổ chức quốc tế, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ, giữa các địa phương của các quốc gia. Du lịch quốc tế làm hình thành, phát triển ngành giao thông quốc tế, quan hệ ngoại hối quốc tế để đáp ứng nhu cầu của du khách quốc tế. Du lịch đóng góp cho lĩnh vực xuất khẩu với hiệu quả cao thông qua "Xuất khẩu tại chỗ" và "Xuất khẩu vô hình". "Xuất khẩu tại chỗ" những hàng hóa công nghiệp, hàng tiêu dùng, thủ công m nghệ, đồ cổ phục chế, nông lâm sản… theo gia bán lẻ cao cho du khách và thông qua con đường du lịch nên không phải chịu thuế mậu dịch quốc tế. "Xuất khẩu vô hình" sản phẩm du lịch như cảnh quan thiên nhiên, khí hậu, ánh nắng mặt trời vùng nhiệt đới, những giá trị di tích lịch sử - văn hóa, truyền thống phong tục tập quán đến với người dân ở các nước khác trên thế giới. Phát triển HĐDL còn góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho địa phương để xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển địa phương đồng thời xây dựng cơ sở vật chất phục vụ HĐDL là cần thiết và có lợi cho cả đôi bên. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư trong ngành du lịch thường cao nên có khả năng hấp dẫn vốn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài.
Bốn là, thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa các dân tộc với nhau. Điều này làm cho các quốc gia, dân tộc hiểu nhau hơn và giúp cho việc HNQT ngày càng sâu rộng. Khi thực hiện các chuyến du lịch, người ta có dịp trực tiếp đối thoại, tìm hiểu lẫn nhau giữa du khách hoặc với cộng đồng dân cư tại nơi đến du lịch, nên con người có cơ hội để thông cảm, hiểu biết nhau hơn. Thông qua HĐDL tăng cường được các mối quan hệ xã hội, tình hữu nghị và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc; Thông qua du lịch, du khách sẽ tăng sự hiểu biết về văn hóa, xã hội của quốc gia và địa phương, tạo ra sự "giao thoa" về văn hóa giữa các vùng,
các miền, các dân tộc trên thế giới; phát triển tình đoàn kết, hữu nghị, thân ái của nhân dân giữa các vùng, địa phương, các quốc gia với nhau.
1.1.5.2. Tác động tiêu cực
Một là, gây áp lực lên kết cấu hạ tầng địa phương, đặc biệt khi du lịch tăng đột biến. HĐDL gia tăng, tăng đột biến hoạt động lữ hành, hoạt động lưu trú làm gia tăng áp lực đối với nguồn cung khách sạn, cơ sở lưu trú phục vụ du khách. Bên cạnh đó, cũng làm gia tăng áp lực về điều kiện phương tiện vận tải và đường sá đảm bảo nhu cầu đi lại và các cơ sở phục vụ du lịch để đáp ứng nhu cầu du khách.
Hai là, gây áp lực cho QLNN. Để đảm bảo cho yêu cầu du lịch và sự phát triển của HĐDL ngày càng gia tăng, đòi hỏi cơ quan QLNN phải cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi thu hút du khách đến du lịch địa phương và các cơ sở kinh doanh du lịch tham gia HĐDL. Ngoài ra, đòi hỏi QLNN phải đảm bảo vai trò của mình thúc đẩy phát triển HĐDL, góp phần phát triển KT-XH của địa phương, đảm bảo an ninh trật tự và an toàn cho du khách.
Ba là, nguy cơ làm phương hại các giá trị văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc. HĐDL có thể gây ảnh hưởng tiêu cực thông qua hành vi của du khách. Hành vi, văn hóa xấu của du khách có thể xâm hại đến văn hóa, làm thay đổi lối sống, truyền thống văn hóa của địa phương.
Bốn là, nguy cơ mất an ninh, an toàn. HĐDL có thể gây ra các tệ nạn xã hội chẳng hạn như du lịch tội phạm, ma túy, mại dâm, văn hóa đồi trụy, tour 0 đồng "chặt chém" du khách, lây lan dịch bệnh.
Năm là, nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. HĐDL quá mức có thể gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến tài nguyên thiên nhiên. Lượng du khách gia tăng điểm du lịch sẽ làm gia tăng rác thải, ảnh hưởng đến sức chứa, gia tăng nhu cầu phục vụ, từ đó, sẽ gây nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường, tài nguyên thiên nhiên
1.2. Quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về hoạt động du lịch
Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý, chẳng hạn, các nhà khoa học như Koonz đã đưa ra khái niệm quản lý được thừa nhận rộng rãi trên thế giới. Theo đó, quản lý là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra. Như vậy, quản lý là hoạt động có chủ đích của chủ thể tác động vào đối tượng bằng cơ chế tác động (nguyên tắc, phương pháp, công cụ).
Từ khái niệm chung về quản lý, có thể thấy QLNN là sự tác động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đến đối tượng chịu sự quản lý, nhằm hướng hành vi của họ đến các mục tiêu nhà nước mong muốn thực hiện.
Các thành phần tham gia vào HĐDL bao gồm: khách du lịch; các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho khách du lịch; chính quyền sở tại; cộng đồng dân cư địa phương. Từ đó, ta có thể thấy rằng các thành tố trong hoạt động QLNN về du lịch, gồm: Chủ thể quản lý (các cơ quan QLNN về du lịch); đối tượng quản lý (các hoạt động trong lĩnh vực du lịch); công cụ quản lý (chiến lược, quy hoạch, chính sách, kế hoạch phát triển du lịch).
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm QLNN về du lịch là sự tác động có tổ chức vào các HĐDL nhằm định hướng các hoạt động này theo các mục tiêu đề ra trong từng giai đoạn.
QLNN về du lịch cấp quận thuộc thành phố TTTƯ đó là sự tác động của chính quyền quận tới HĐDL theo phân cấp chức năng, nhiệm vụ quản lý tới HĐDL để đạt mục tiêu KT-XH của địa phương và thành phố đề ra trong từng giai đoạn. Như vậy, chủ thể QLNN về du lịch ở cấp quận gồm: Cơ quan QLNN về du lịch cấp quận Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) quận cùng với các cơ quan tư vấn, giúp việc như Phòng Văn hóa - Thông tin, và các phòng liên quan. Cơ quan QLNN về du lịch cấp quận thực hiện quản lý theo
phân cấp được quy định, dưới sự chỉ đạo của các cơ quan quản lý cấp thành phố TTTƯ và chịu sự giám sát của nhân dân.
Đối tượng quản lý: là các HĐDL và các hoạt động liên quan đến du lịch trên địa bàn quận.
Công cụ quản lý: các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ở quận thực hiện quản lý các HĐDL bằng hệ thống các công cụ quản lý kinh tế như các chiến lược, quy hoạch, chính sách, kế hoạch phát triển HĐDL, các quy định của pháp luật trong phạm vi thẩm quyền được phân cấp.
Từ các phân tích trên, QLNN về du lịch cấp quận là sự tác động có tổ chức của chính quyền nhà nước cấp quận tới HĐDL trên địa bàn nhằm thúc đẩy HĐDL phát triển bền vững và có hiệu quả, góp phần thực hiện các mục tiêu KT- XH đề ra của địa phương.
1.2.2. Đặc điểm và phân cấp quản lý nhà nước về hoạt động du lịch cấp quận
1.2.2.1. Đặc điểm
Đặc điểm về đối tượng quản lý: HĐDL là một hoạt động phức tạp, gắn với sự hiện diện của du khách mà phần lớn đến từ địa phương khác, nước khác. Bên cạnh đó, HĐDL mang tính đa dạng và có yếu tố quốc tế. Đây còn là dịch vụ mang tính liên ngành, liên vùng, mang tính tổng hợp có sự tham gia của các ngành khác nhau. Do đó, QLNN về du lịch cần có sự phối hợp liên ngành, liên vùng. Bên cạnh đó, HĐDL trên địa bàn thành phố Hà Nội còn mang đặc điểm gắn với yếu tố đô thị. Chẳng hạn, HĐDL trên địa bàn thành phố Hà Nội chung và quận Hoàn Kiếm nói riêng với các tài nguyên du lịch gắn với yếu tố đô thị trung tâm gắn với điều kiện tự nhiên, cảnh quan, yếu tố lịch sử, văn hóa...
Đặc điểm về cấp quản lý: đặc thù của cấp tỉnh, thành phố là cấp thừa hành, có phân quyền, vừa thực hiện pháp luật, chính sách của trung ương, vừa ban hành chính sách theo thẩm quyền. Cấp trung ương sẽ ban hành luật và các chính sách thống nhất QLNN về du lịch trên cả nước, từ đó, cấp tỉnh, thành phố sẽ cụ thể hóa và triển khai thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách