Quản Lý Bảo Tồn, Khai Thác Tài Nguyên Du Lịch Và Bảo Vệ Môi Trường


tỉnh chịu trách nhiệm hoàn thiện hồ sơ để nộp lên Tổng cục Du lịch, Tổng cục Du lịch sẽ thẩm định và trình Bộ trưởng Bộ VH,TT&DL ra quyết định công nhận.

Luật Du lịch 2017 cũng quy định rõ về việc cấp phép hoạt động đối với các doanh nghiệp du lịch, bao gồm các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành, dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống và các dịch vụ bổ sung khác phục vụ khách du lịch. Theo đó, Sở VH,TT&DL (Sở Du lịch) tỉnh có trách nhiệm thẩm định hồ sơ trình cấp, sửa đổi, bổ sung, cấp lại, gia hạn, thu hồi giấy phép thành lập văn phòng đại diện của doanh nghiệp du lịch nước ngoài đặt trên địa bàn tỉnh; hồ sơ đề nghị cấp có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh; thẩm định trình cấp, cấp lại, đổi, thu hồi thẻ hướng dẫn viên du lịch; cấp, thu hồi giấy chứng nhận thuyết minh viên theo quy định; xếp hạng cho các cơ sở lưu trú (từ 3 sao trở xuống) gồm khách sạn, làng du lịch; biệt thự, căn hộ du lịch; bãi cắm trại; nhà nghỉ du lịch; khu du lịch; điểm du lịch; tuyến du lịch; cơ sở lưu trú du lịch khác; cấp biển hiệu đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch cho cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch trong khu du lịch, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó, Sở VH,TT&DL (Sở Du lịch) còn có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch cho thuyền viên, người lái tàu, nhân viên phục vụ trên phương tiện thủy nội địa; lái xe, nhân viên phục vụ trên xe vận tải khách du lịch; phối hợp với Sở Giao thông vận tải trong việc cấp biển hiệu, quản lý kinh doanh vận chuyển khách du lịch bằng xe ô tô, phương tiện thủy nội địa; phối hợp với Ban Quản lý di tích tỉnh trong việc khai thác, phát huy giá trị di tích trong HĐDL; phối hợp với thanh tra sở, các ngành liên quan trong hướng dẫn, kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực du lịch.

2.2.3.7. Quản lý bảo tồn, khai thác tài nguyên du lịch và bảo vệ môi trường

Để đảm bảo mục tiêu PTDL mang tính bền vững, tại mỗi địa phương, hoạt động khai thác TNDL luôn luôn phải đi đôi với bảo tồn, và quản lý bảo tồn tài nguyên du lịch của các cơ quan QLNN tại địa phương có vai trò vô cùng quan trọng.

Nội dung quản lý bảo tồn và khai thác TNDL của địa phương bao gồm điều tra, đánh giá, phân loại, xây dựng cơ sở dữ liệu về TNDL của tỉnh; tham mưu việc thực hiện các biện pháp để khai thác sử dụng và phát huy nguồn TNDL, bảo vệ môi trường trong HĐDL trên địa bàn tỉnh. Công tác này trực tiếp do Sở VH,TT&DL (Sở Du lịch) tỉnh thực hiện.

Công tác điều tra TNDL được thực hiện thông qua các tài liệu, văn bản liên quan và kết hợp điều tra thực địa về vị trí địa lý, các điểm du lịch, các trung tâm cung


cấp và thu hút khách, thuận lợi và khó khăn trong phối hợp với các địa phương và khả năng PTDL, về địa hình, khí hậu, các yếu tố thuận lợi/ bất lợi cho HĐDLvà tính mùa vụ trong khai thác,…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 165 trang tài liệu này.

Đánh giá TNDL bao gồm đánh giá từng loại tài nguyên về số lượng, chất lượng, thực trạng khai thác bảo vệ, khả năng PTDL và đánh giá tổng thể các loại TNDL của tỉnh về mức độ hấp dẫn, mức độ thuận lợi, thời gian HĐDL, sức chứa, độ bền vững, sự phù hợp với các phân hệ khác trong lãnh thổ.

Trên cơ sở triển khai hoạt động điều tra, đánh giá giá trị TNDL, tiến hành các biện pháp tích cực để duy trì và phát huy giá trị của các TNDL này.

Theo Luật Du lịch 2017, UBND cấp tỉnh và các cơ quan nhà nước có liên quan chịu trách nhiệm phối hợp với Bộ VH,TT&DL (chủ trì) điều tra, đánh giá, phân loại TNDL để làm căn cứ lập quy hoạch về du lịch; quản lý, bảo vệ, tôn tạo, khai thác hợp lý và phát huy giá trị TNDL. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư quản lý TNDL có trách nhiệm bảo vệ, đầu tư, tôn tạo TNDL, tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch tham quan, thụ hưởng giá trị của TNDL; phối hợp với các cơ quan QLNN về du lịch có thẩm quyền trong việc bảo vệ và khai thác TNDL cho các mục tiêu kinh tế khác. Khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư có trách nhiệm bảo vệ TNDL.

Một trong những nhiệm vụ quan trọng để vừa khai thác có hiệu quả vừa bảo tồn TNDL đó là vấn đề quản lý sức chứa của điểm, khu du lịch. Theo Tổ chức du lịch thế giới, sức chứa của một điểm đến là mức độ sử dụng hoặc PTDL tối đa mà điểm đến có thể hấp thu (chấp nhận) mà không tạo ra sự phá hủy môi trường tự nhiên và các vấn đề KT-XH đồng thời không làm giảm chất lượng và kinh nghiệm thu nhận của khách. Theo tác giả Ngô Diệu An (giáo trình Tổng quan du lịch, 2014), có thể phân chia sức chứa của điểm đến gồm 4 loại là sức chứa vật chất, sức chứa tâm lý (nhận thức), sức chứa sinh học và sức chứa xã hội.

Theo mô hình mối quan hệ giữa doanh thu du lịch và lượng khách du lịch (xem hình 2.1), lượng khách tối đa mà điểm du lịch có thể tiếp nhận là B (hay giới hạn sức chứa tại điểm du lịch). Nếu lượng khách tăng dưới mức B thì doanh thu từ du lịch sẽ tăng lên tỷ lệ thuận tương ứng. Tuy nhiên, khi vượt quá mức B, tức là điểm đến quá tải, thì doanh thu sẽ giảm (theo hướng tỷ lệ nghịch với lượng khách). Bản chất của doanh thu du lịch trong trường hợp này là doanh thu tương đối. Khi lượng khách vượt quá mức B, doanh thu du lịch thực tế có thể tăng nhưng nó không đủ để bù đắp lại những chi phí mà điểm du lịch phải bỏ ra để tiếp đón lượng khách đó, chẳng hạn như


chi phí về môi trường, những tác hại tiêu cực về văn hóa, xã hội khi không kiểm soát được lượng khách,…

Hình 2 1 Mô hình mối quan hệ giữa doanh thu du lịch và lượng khách du lịch 1

Hình 2.1. Mô hình mối quan hệ giữa doanh thu du lịch và lượng khách du lịch (Nguồn: Quang Hưng - Bài viết Sức chứa du lịch – yếu tố quan trọng phát triển du lịch đăng trên trang thông tin của Tổng cục Du lịch, 2015)

Chính vì vậy, bên cạnh việc khai thác PTDL, quản lý sức chứa của điểm đến là một việc hết sức cần thiết. Bản chất của quản lý sức chứa của điểm đến chính là kiểm soát lượng khách đến du lịch tương ứng với sức chứa tối đa của điểm đến du lịch đã xác định. Trên cơ sở tính toán được sức chứa tối đa của điểm đến du lịch, tức là lượng khách tối đa mà điểm đến du lịch có thể tiếp nhận trong một thời điểm, CQĐP cấp tỉnh cần có các biện pháp dự phòng để kiểm soát lượng khách, chẳng hạn như: Khống chế lượng khách đến du lịch bằng quy mô cơ sở hạ tầng, CSVCKT phục vụ du lịch (liên quan đến số lượng cơ sở lưu trú, cơ sở kinh doanh dịch vụ vận chuyển, cơ sở cung cấp dịch vụ ăn uống,...); khống chế lượng khách bằng việc quy định thời gian tiếp cận điểm đến du lịch (giờ vào, giờ ra) hay lượng vé bán ra trong ngày;…

2.2.3.8. Quản lý phát triển nhân lực, ứng dụng khoa học và công nghệ trong phát triển du lịch

Quản lý phát triển nhân lực du lịch của địa phương là thực hiện xác định rõ yêu cầu đào tạo, trách nhiệm của các bên tham gia vào quá trình đào tạo, cách thức tổ chức đào tạo, nội dung, thời gian, kinh phí và hiệu quả đào tạo. Sở VH,TT&DL (Sở Du lịch) tỉnh là đầu mối phối hợp với các cơ sở đào tạo, xây dựng và tư vấn cho UBND tỉnh kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực du lịch phù hợp với địa phương mình.

Hình thức và phương pháp đào tạo cần được tổ chức đa dạng, phù hợp cho từng đối tượng đào tạo bao gồm đội ngũ cán bộ quản lý tại các cơ quan QLNN về du lịch, đại diện các doanh nghiệp du lịch và cộng đồng dân cư địa phương. Mỗi đối tượng có những nét đặc thù khác nhau nên hình thức, phương pháp đào tạo cần được


xây dựng riêng. Nội dung đào tạo cũng cần phải xây dựng phù hợp cho từng đối tượng như đào tạo nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ QLNN, người làm công tác quản lý, chuyên gia nghiên cứu; đào tạo nâng cao nhận thức về cách thức làm du lịch, các nghiệp vụ cơ bản, cách thức quản lý, bảo tồn giá trị văn hóa,… cho cộng đồng dân cư; đào tạo nghiệp vụ, kĩ năng nghề cho doanh nghiệp du lịch.

Để thực hiện đào tạo, phát triển nhân lực du lịch của địa phương, cơ quan QLNN về du lịch ở địa phương cần củng cố, sắp xếp, nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo hiện có, phát triển các cơ sở đào tạo chuyên ngành; có kế hoạch phối hợp với các trường đại học, cao đẳng có đào tạo về du lịch mở nhiều lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ cho các đối tượng đã được xác định kể trên.

Bên cạnh quản lý phát triển nhân lực, để du lịch địa phương phát triển theo kịp sự phát triển của du lịch trong khu vực và trên thế giới, việc ứng dụng khoa học công nghệ trong PTDL là điều hết sức cần thiết. Ứng dụng khoa học công nghệ trong PTDL có nhiều cấp độ khác nhau, từ việc sử dụng các ứng dụng công nghệ trong kinh doanh du lịch, xây dựng hệ thống dữ liệu thông tin du lịch điện tử, các giải pháp phát triển du lịch thông minh,… Ứng dụng khoa học công nghệ trong PTDL được coi là giải pháp đột phá để tạo lợi thế trong thu hút khách, nâng cao trải nghiệm của khách hàng, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, ứng dụng khoa học công nghệ với việc hình thành và quản lý hệ thống dữ liệu điện tử vô cùng đồ sộ cũng đặt ra vấn đề lớn liên quan đến an ninh mạng – vốn cũng là vấn đề vô cùng phức tạp và nhạy cảm. Chính vì vậy, các cơ quan QLNN cần phải có biện pháp quản lý chặt chẽ, có quy định và định hướng rõ ràng.

2.2.3.9. Tổ chức kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong phát triển du lịch

Kiểm tra và thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong PTDL của địa phương là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của địa phương đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật về du lịch. Đây là một nội dung quan trọng của công tác QLNN nhằm phát huy việc chấp hành các quy định của pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia HĐDL.

Cơ quan QLNN về du lịch ở cấp trung ương chịu trách nhiệm chỉ đạo, phối hợp với các CQĐP các cấp tổ chức thực hiện kiểm tra, thanh tra du lịch trong phạm vi cả nước. Chính quyền và các bộ phận chức năng địa phương chủ động tiến hành kiểm tra, thanh tra HĐDL trên địa bàn.


Phát triển du lịch có thể làm nảy sinh nhiều vấn đề như vi phạm quy hoạch, phá vỡ cảnh quan, ô nhiễm môi trường, thậm chí là các vấn đề liên quan đến an ninh quốc phòng, các vấn đề phá vỡ nền tảng văn hóa địa phương, sự chậm trễ và sai phạm trong quá trình đầu tư phát triển gây thiệt hại về KT-XH,... Do vậy, công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo có vai trò quan trọng.

Tổ chức thường kỳ kiểm tra, rà soát, đánh giá việc thực hiện các VBPL về du lịch. Giám sát hoạt động của mọi chủ thể tham gia HĐDL cũng như chế độ quản lý của các chủ thể đó; phát hiện những lệch lạc, nguy cơ chệch hướng hoặc vi phạm pháp luật và những quy định của Nhà nước. Kiểm tra tính hợp pháp về sự tồn tại của các điểm, khu du lịch và các điều kiện đảm bảo đón tiếp và phục vụ du khách nhằm chấn chỉnh HĐDL phát triển đúng hướng, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Kiểm tra các điểm, khu du lịch đảm bảo tốt các điều kiện về CSVCKT, về nhân lực, về các điều kiện an ninh, an toàn để phục vụ nhu cầu du lịch của du khách.

Thanh tra là sự xem xét, đánh giá và xử lý vi phạm trong việc thực hiện pháp luật của tổ chức, cá nhân trong hoạt động PTDL. Mục đích hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động QLNN; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với chủ thể tham gia PTDL phải có những quy định rõ về bộ phận nhận đơn khiếu nại, tố cáo, thời gian tiếp dân, thời gian trả lời đơn thư khiếu nại, tố cáo.

Xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định pháp luật của các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về du lịch.

2.2.4. Các tiêu chí đánh giá quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch của địa phương cấp tỉnh

Trong quá trình CQĐP cấp tỉnh thực hiện vai trò QLNN đối với PTDL của tỉnh, cần phải thường xuyên đánh giá để biết được những thành công và hạn chế cũng như các nguyên nhân để từ đó có các điều chỉnh thích hợp. Để đánh giá được QLNN của CQĐP cấp tỉnh đối với PTDL trên địa bàn tỉnh thì cần phải có các tiêu chí đánh giá. Tiêu chí đánh giá là các chuẩn mực, dấu hiệu làm căn cứ để các nhà nghiên cứu


dựa vào đó để phân tích, đánh giá và đưa ra các kết luận về việc thực hiện các mục tiêu đã đặt ra. Hay nói cách khác, việc đánh giá, xem xét mức độ hoàn thành các mục tiêu được thực hiện thông qua đo lường các tiêu chí. Trong luận án này, nghiên cứu sinh sử dụng các tiêu chí đánh giá dựa trên mô hình các tiêu chí đánh giá QLNN của Ngân hàng Phát triển Châu Á (Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh, 2003) gồm tính hiệu lực, tính hiệu quả, tính hợp lý và tính bền vững. Trên cơ sở các tiêu chí chung, phát triển lý thuyết được đề xuất bởi các tác giả Đào Anh Tuấn (2013), Nguyễn Anh Tú (2015), Nguyễn Hồng Phú (2018), gắn với nội dung QLNN của CQĐP cấp tỉnh đối với PTDL trên địa bàn tỉnh, nghiên cứu sinh đã thiết lập nên hệ thống các tiêu chí đánh giá QLNN đối với PTDL của một địa phương cấp tỉnh thông qua việc khảo sát ý kiến các chuyên gia trong lĩnh vực du lịch. Theo đó, QLNN đối với PTDL của một địa phương cấp tỉnh được đánh giá qua các tiêu chí về tính hiệu lực, tính hiệu quả, tính phù hợp và tính bền vững của hoạt động QLNN đối với PTDL, cụ thể như sau:

2.2.4.1. Tính hiệu lực của hoạt động quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch

Hiệu lực QLNN chỉ mức độ tuân thủ pháp luật, chấp hành mọi chỉ đạo từ các cơ quan QLNN của các đối tượng quản lý; đồng thời, biểu hiện mức độ hiện thực quyền lực Nhà nước của các cơ quan QLNN và uy tín của các cơ quan QLNN đối với các đối tượng quản lý.

Đối với PTDL của một địa phương, hiệu lực QLNN thể hiện ở mức độ tuân thủ của các đối tượng quản lý (gồm doanh nghiệp lữ hành, cư dân địa phương và khách du lịch) về các VBPL, chấp hành mọi chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình, quyết định, chỉ thị từ các cơ quan QLNN cấp địa phương về du lịch và mức độ thực hiện quyền lực Nhà nước cũng như uy tín của các cơ quan đó.

Tính hiệu lực của QLNN đối với PTDL của một địa phương cấp tỉnh được đánh giá thông qua hệ thống chỉ tiêu sau:

(1) Mức độ tuân thủ các quy định trong tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách PTDL của địa phương;

(2) Mức độ tuân thủ trong tổ chức thực hiện VBPL du lịch được xây dựng và ban hành theo thẩm quyền của địa phương;

(3) Hệ thống VBPL du lịch được xây dựng và ban hành theo thẩm quyền của địa phương đầy đủ, đồng bộ, công khai, minh bạch;

(4) Chính sách thu hút đầu tư PTDL của địa phương công khai, minh bạch;

(5) Thủ tục thẩm định dự án đầu tư PTDL của địa phương chặt chẽ, hợp pháp;


(6) Thủ tục công nhận khu, điểm du lịch và cấp phép HĐDL của địa phương rõ ràng, công khai, minh bạch;

(7) Chính sách bảo tồn, khai thác tài nguyên du lịch và bảo vệ môi trường du lịch của địa phương rõ ràng, đầy đủ, đồng bộ;

(8) Có định hướng rõ ràng về việc ứng dụng khoa học – công nghệ trong PTDL của địa phương;

(9) Các hình thức xử lý vi phạm trong PTDL của địa phương có tính răn đe cao.

2.2.4.2. Tính hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch

Hiệu quả của một hoạt động được đánh giá bằng cách so sánh kết quả thực tế đạt được với chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Hiệu quả QLNN là kết quả quản lý, điều hành của bộ máy nhà nước đạt được trong sự tương quan với chi phí bỏ ra, các nguồn lực đầu vào, trong mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội.

Trong lĩnh vực du lịch, hiệu quả QLNN đối với PTDL của một địa phương thể hiện qua các chỉ tiêu về sự gia tăng của lượng khách du lịch, thu nhập từ du lịch, số lượng lao động trong lĩnh vực du lịch, mức độ đóng góp của du lịch vào GRDP,… của địa phương đó theo thời gian.

Tính hiệu quả của QLNN đối với PTDL của một địa phương cấp tỉnh được đánh giá thông qua hệ thống chỉ tiêu sau:

(1) Mức độ hoàn thành các nhiệm vụ trong tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách PTDL;

(2) Hệ thống VBPL du lịch được xây dựng và ban hành theo thẩm quyền tạo thuận lợi cho địa phương trong PTDL;

(3) Tổ chức bộ máy QLNN về du lịch của tỉnh là hiệu quả;

(4) Công tác phối hợp giữa các ngành trong quản lý HĐDL trên địa bản tỉnh đáp ứng yêu cầu;

(5) Mức độ hiệu quả và chất lượng của các dự án đầu tư PTDL của địa phương;

(6) Chính sách xúc tiến phát triển thị trường du lịch của địa phương hấp dẫn, hiệu quả;

(7) Chất lượng khu, điểm du lịch và doanh nghiệp du lịch của địa phương ngày càng được nâng cao;

(8) Tài nguyên du lịch của địa phương được bảo tồn khai thác hiệu quả trong PTDL;

(9) Số lượng và chất lượng lao động du lịch được đào tạo của địa phương ngày càng được nâng cao;


(10) Ứng dụng khoa học – công nghệ đem lại hiệu quả trong PTDL của địa phương;

(11) Có xu hướng giảm các khiếu nại, tố cáo, vi phạm trong PTDL của địa phương.

2.2.4.3. Tính phù hợp của quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch

Tính phù hợp của QLNN đối với PTDL ở địa phương cấp tỉnh là tiêu chí đánh giá tính thích hợp, khả thi của QLNN của CQĐP cấp tỉnh đối với PTDL trên địa bàn tỉnh trong công tác hoạch định, tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát các hoạt động PTDL đảm bảo phù hợp với các điều kiện vốn có của tỉnh.

Theo đó, QLNN của CQĐP cấp tỉnh đối với PTDL của tỉnh phải đảm bảo phù hợp về cả nội dung tác động, về đối tượng tác động, phương thức tác động.

Tính phù hợp của QLNN đối với PTDL của một địa phương cấp tỉnh được đánh giá thông qua hệ thống chỉ tiêu sau:

(1) Phương pháp tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách PTDL phù hợp với điều kiện của địa phương;

(2) Hệ thống VBPL du lịch được xây dựng và ban hành theo thẩm quyền phù hợp với đặc thù của địa phương;

(3) Số lượng cán bộ QLNN về du lịch của địa phương là hợp lý;

(4) Xác định thị trường khách du lịch của địa phương phù hợp với điều kiện phát triển của địa phương trong từng giai đoạn;

(5) Công tác quản lý bảo tồn, khai thác TNDL và bảo vệ môi trường du lịch của địa phương phù hợp với điều kiện của địa phương;

(6) Hình thức tổ chức kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong PTDL của địa phương phù hợp.

2.2.4.4. Tính bền vững của hoạt động quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch

Tính bền vững của hoạt động QLNN đối với PTDL của địa phương cấp tỉnh là tiêu chí đánh giá mức độ duy trì áp dụng lâu dài của các chính sách, quy định, quyết định, kế hoạch,… của CQĐP cấp tỉnh trong PTDL của địa phương đó.

Ngoài ra, sự bền vững của QLNN đối với PTDL của địa phương cấp tỉnh còn thể hiện ở sự đảm bảo về các vấn đề môi trường, bảo vệ TNDL (tài nguyên tự nhiên và tài nguyên văn hóa), bảo tồn văn hóa, lối sống của cư dân bản địa.

Tính bền vững của QLNN đối với PTDL của một địa phương cấp tỉnh được đánh giá thông qua hệ thống chỉ tiêu sau:

(1) Hệ thống VBPL du lịch được xây dựng và ban hành theo thẩm quyền của địa phương được áp dụng ổn định, lâu dài;

Xem tất cả 165 trang.

Ngày đăng: 23/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí