Đánh Giá Chung Về Thực Trạng Quản Lý Nhà Nước Của Tỉnh Thanh Hóa Đối Với Phát Triển Du Lịch Bền Vững


phấn đầu trở thành trung tâm du lịch của vùng Bắc Trung Bộ vào những năm 2030 và trở thành một trong những trọng điểm du lịch của cả nước sau những năm 2030. Như vậy, tài nguyên du lịch có tác động trực tiếp và rất lớn đến việc xác định định hướng, mục tiêu phát triển, lựa chọn sản phẩm du lịch đặc trưng, xác định các giải pháp PTDL; ảnh hưởng đến khả năng PTDLBV của địa phương cấp tỉnh.

Yếu tố thứ 2: “Điều kiện Kinh tế, chính trị, xã hội” (KTXH) được các đối tượng điều tra đánh giá là yếu tố có ảnh hưởng thứ hai đến QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV, với điểm trung bình đạt 4,26/5,0 điểm – mức 1- mức rất ảnh hưởng. Có thể thấy rằng, trình độ phát triển KTXH của một địa phương có tác động rất lớn đến khả năng PTDLBV của địa phương đó. KTXH của địa phương phát triển ở trình độ nào thì ngành du lịch sẽ có điều kiện cho sự phát triển ở mức độ đó. Mặt khác, điều kiện chính trị, hòa bình ổn định là tiền đề cho sự phát triển kinh tế, văn hóa của một địa phương, từ đó, tạo điều kiện cho sự PTDLBV của địa phương. Giai đoạn 2016-2020, tỉnh Thanh Hóa có kinh tế tăng trưởng nhanh; chất lượng tăng trưởng được nâng lên, từng bước khẳng định là một trong những động lực tăng trưởng quan trọng của khu vực miền Trung và cả nước. Trong giai đoạn này, trên địa bàn tỉnh đã thu hút được 1.110 dự án đầu tư trực tiếp (gấp gần 2 lần giai đoạn 2011 - 2015), gồm: 1.032 dự án đầu tư trong nước (gấp 1,92 lần) và 78 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (gấp 3,1 lần giai đoạn 2011 - 2015), với tổng vốn đầu tư đăng ký 186.200 tỷ đồng (tăng 46,8%) và 3.643,3 triệu USD (tăng 54% so với giai đoạn 2011 - 2015), đây chính là những điều kiện để thúc đẩy QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV.

Các yếu tố khách quan tiếp theo ảnh hưởng đến QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV gồm: “Quan điểm, đường lối PTDLBV” (DLPT) với GTTB đạt 4,01 – mức 2 – mức ảnh hưởng và “Ý thức trách nhiệm của khách DL, cơ sở KDDL và người dân địa phương” (YTTN) với GTTB đạt 3,47 – mức 2 – mức ảnh hưởng.

Ngoài những yếu tố khách quan trên, QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV còn chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan. Theo kết quả điều tra, các yếu tố chủ quan ảnh hưởng lớn đến QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV bao gồm: “Năng lực QLNN đối với PLDLBV” (NL) với GTTB đạt 3,54/5,0 điểm – mức 2

– mức ảnh hưởng. Đối với mỗi địa phương, năng lực QLNN ở mức độ nào sẽ có tác động đến PTDLBV tương ứng ở mức độ đó. Hiện nay, bộ máy QLNN về du lịch trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đang từng bước được củng cố, hoàn thiện và phát triển, đồng thời thực hiện tốt sự phối hợp với các sở, ban ngành có liên quan trong việc quản lý và PTDLBV. Bên cạnh đó, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất của đội ngũ CBQL có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả và hiệu lực của


QLNN của địa phương cấp tỉnh đối với PTDLBV. Tuy nhiên, hiện nay trình độ, năng lực của một bộ phận CBQL về du lịch tỉnh Thanh Hóa còn hạn chế, chưa thực sự đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ, hiệu quả quản lý.

Yếu tố chủ quan tiếp theo ảnh hưởng đến QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV là “Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất k thuật phục vụ PTDLBV” (CSHT) với GTTB đạt 3,48/5,0 điểm – mức 2 – mức ảnh hưởng. Thực tế cho thấy, mặc dù ảnh hưởng ít nhất đến QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV, tuy nhiên, nhóm yếu tố về Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ PTDLBV sẽ tạo tiền đề cho sự QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV. Có thể nói, cơ sở hạ tầng giao thông tại tỉnh Thanh Hóa tương đối hoàn thiện nhưng vẫn còn chưa đảm bảo, hệ thống hạ tầng giao thông đến các điểm DL và hệ thống hạ tầng phục vụ du khách tại các điểm còn hạn chế, chưa tạo sự thuận tiện cho du khách. Ngoài ra, hê thống hạ tầng giao thông, thủy lợi, cấp nước, xử lý môi trường tại các khu vực ven biển đang thiếu đồng bộ, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV.

3.4. Đánh giá chung về thực trạng quản lý nhà nước của tỉnh Thanh Hóa đối với phát triển du lịch bền vững

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 244 trang tài liệu này.

3.4.1. Những thành công và nguyên nhân

* Thành công

Quản lý nhà nước của tỉnh Thanh Hóa đối với phát triển du lịch bền vững - 19

Thứ nhất, việc xây dựng, tổ chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch PTDLBV của tỉnh có sự đổi mới cả về nội dung, phương pháp và tổ chức thực hiện, tạo điều kiện cho việc QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV được thực hiện một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, việc chỉ đạo xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách, đề án, dự PTDL của tỉnh có nhiều tiến bộ, ban hành nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích ưu đãi thu hút đầu tư, tích cực tranh thủ nguồn vốn của TW hỗ trợ cùng với huy động từ nhiều nguồn khác đầu tư CSHT phụ vụ PTDVDL. Điều đó đã góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân tham gia trong HĐDL, đồng thời, nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV.

Thứ hai, công tác xây dựng và tổ chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch PTDL tại tỉnh Thanh Hóa đã có nhiều chuyển biến tích cực về nội dung, phương pháp và cách thức thực hiện, bước đầu định hướng cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh HĐDL hướng phát triển vừa đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp, vừa đảm bảo cho các TNDL bảo tồn tính nguyên vẹn vốn có.

Thứ ba, bộ máy QLNN về du lịch Thanh Hóa được kiện toàn, Sở VHTT&DL Thanh Hóa thời gian qua đã thực hiện tốt chức năng tham mưu cho


UBND tỉnh ban hành các quyết định QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV, đồng thời thực hiện tốt sự phối hợp với các sở, ban ngành có liên quan trong việc quản lý và PTDLBV.

Thứ tư, hoạt động xúc tiến phát triển thị trường du lịch đã được quan tâm và triển khai phù hợp với từng thời kỳ, từng chủ đề PTDL của tỉnh. Cơ quan QLNN về du lịch tỉnh Thanh Hóa đã thể hiện rõ vai trò của mình trong các hoạt động hợp tác xúc tiến quảng bá du lịch thông qua sự kết nối giữa cơ quan QLNN về du lịch tỉnh Thanh Hóa với thị trường liên vùng, khu vực, các phương pháp hợp tác và xúc tiến đa dạng, phong phú cả về nội dung lẫn hình thức, đã ký kết nhiều chương trình hợp tác, liên kết PTDL với các tỉnh, thành phố trong nước và một số tỉnh.

Thứ năm, chính quyền tỉnh Thanh Hóa đã có nhiều nỗ lực trong công tác đào tạo và xây dựng đội ngũ CBQL về du lịch. Tỉnh đã đưa ra được các chính sách hỗ trợ kịp thời, nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp, tổ chức, đào tạo nâng cao kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ lao động phục vụ trong ngành du lịch. Từ đó, góp phần, nâng cao chất lượng phục vụ. Việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong lĩnh vực du lịch được quan tâm, đã có nhiều đề tài khoa học có chất lượng được ứng dụng; các trang thông tin điện tử góp phần tích cực trong việc giới thiệu, quảng bá du lịch Thanh Hóa ra các vùng, miền và bạn bè quốc tế.

Thứ sáu, công tác chỉ đạo, kiểm tra, xử lý các vi phạm về môi trường đã được tiến hành thường xuyên góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động KTXH của tỉnh, trong đó có ngành du lịch của tỉnh. Bên cạnh đó, tỉnh cũng đã thường xuyên tổ chức các phong trào phối hợp với người dân địa phương trong việc bảo tồn di tích, đem lại hiệu quả tích cực về mặt KTXH, góp phần thu hút khách du lịch đến với địa phương, lượng khách du lịch đến với loại hình du lịch có sự tăng trưởng qua từng năm.

Thứ bảy, công tác thanh tra, kiểm tra đối với PTDLBV được duy trì thường xuyên, góp phần ổn định thị trường, đẩy mạnh các hoạt động KDDL, giữ gìn kỷ cương pháp luật trong hoạt động trên địa bàn tỉnh. Qua thời gian thực hiện, công tác này đã nhận được sự quan tâm, sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của các cấp, các ngành và địa phương. Đội ngũ cán bộ làm công tác này được đào tạo cơ bản, có nhiều cố gắng, nỗ lực, khắc phục khó khăn để tham mưu, hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy, công tác thanh tra, kiểm tra du lịch tỉnh cơ bản được thực hiện nghiêm túc, đúng luật du lịch năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành trong lĩnh vực du lịch.

* Nguyên nhân

Có được những kết quả trong công tác QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV như trên là do:


- Cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước nói chung, cơ chế, chính sách, pháp luật của tỉnh nói riêng, nhất là Luật Du lịch và các VBQPPL khác từng bước tạo sự thuận lợi cho QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV.

- Tỉnh Thanh Hóa luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương Đảng, Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương;

- Tỉnh ủy, UBND tỉnh luôn có sự năng động trong việc lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Trung ương cũng như ban hành các văn bản thuộc thẩm quyền để PTDLBV trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, các cấp ngành trong tỉnh đã tham mưu cho UBND tỉnh về QLNN đối với PTDLBV, đã có sự nỗ lực phấn đấu và quyết tâm hoàn thiện QLNN của tỉnh đối với PTDLBV.

- Chính quyền tỉnh đã tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác, trao đổi kinh nghiệm QLNN của các địa phương cấp tỉnh khác đối với PTDLBV;

- Bộ máy QLNN của tỉnh đối với PTDLBV từng bước được sắp xếp lại, đã có sự phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn của tỉnh trong việc xử lý các hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực này;

- Chất lượng đội ngũ CBQL của tỉnh đối với PTDLBV từng bước được nâng lên. Công tác đào tạo, bồi dưỡng và hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành du lịch được quan tâm thực hiện.

3.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân

* Hạn chế

- Thứ nhất, công tác quản lý và giám sát quy hoạch đạt hiệu quả chưa cao, tiến độ triển khai các dự án đầu tư còn chậm, một số dự án đầu tư du lịch kéo dài chưa được giải quyết dứt điểm, như: Dự án Hiền Đức, dự án Tân Dân, dự án đảo Nghi Sơn huyện Tĩnh Gia; dự án khu du lịch sinh thái cửa Trường Lệ, Sầm Sơn; dự án khu du lịch Tiên Trang huyện Quảng Xương; dự án khu du lịch sinh thái biển Hải Tiến...; Công tác cân đối đầu tư quy hoạch cho các vùng miền chưa thực sự phù hợp (mới chỉ tập trung cho du lịch biển).

- Thứ hai, công tác tạo lập sự liên kết, hợp tác PTDL với các địa phương khác trong nước tuy được thực hiện nhưng chưa thực sự hiệu quả.

- Thứ ba, hệ thống tổ chức QLNN về du lịch, sau khi kiện toàn được tổ chức lại tinh gọn, tuy nhiên lực lượng biên chế mỏng, đặc biệt là ở cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Sự phối hợp trong quản lý HĐDL giữa các cơ quan chức năng của tỉnh chưa thật sự chặt chẽ trong khi đó lại chưa phân định được một cách rõ ràng trách nhiệm và lợi ích của các ngành, các cấp và cộng đồng dân cư trong quản lý các HĐDL tại các khu, điểm du lịch, khiến cho công tác triển khai các chính


sách và quyết định QLNN khi ban hành được triển khai từ tỉnh xuống địa phương và doanh nghiệp còn chậm trễ.

- Thứ tư, công tác bồi dưỡng, đào tạo, nguồn nhân lực chất lượng phục vụ cho du lịch còn nhiều hạn chế. Công tác đào tạo đã có sự chuyển biến, tuy nhiên lại chưa đáp ứng được nhu cầu lao động phổ thông phục vụ trong ngành du lịch. Đồng thời, chất lượng cán bộ làm công tác QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV chưa thực sự hiểu hết toàn bộ, thực trạng của du lịch để tham mưu các chính sách, chiến lược phát triển cho các cấp lãnh đạo một cách có hiệu quả. Số lượng CBQL về du lịch của tỉnh hiện nay là chưa thực sự hợp lý và các nội dung thanh, kiểm tra, giám sát, xử lý sai phạm, khiếu nại vẫn chưa đảm khảo một cách khách quan và hợp lý;

- Thứ năm, công tác kiểm tra, thanh tra mặc dù đã có sự liên kết giữa các ban ngành có liên quan, tuy nhiên công tác này lại chưa được kiểm tra một cách thường xuyên, mà chỉ được tiến hành theo từng đợt, đồng thời, quá trình, xử lý sau khi tiến hành kiểm tra, thanh tra phát hiện được chưa được xử lý một cách nghiêm túc, khiến cho những hành vi ảnh hưởng xấu đến chất lượng du lịch của các cơ sở kinh doanh còn tái phạm, kéo dài, việc tố cáo, khiếu nại còn diễn ra phức tạp. Mặt khác, theo kết quả của các đối tượng khảo sát thì hoạt động kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về du lịch chưa được tiến hành đúng quy trình, đúng thời gian.

- Thứ sáu, QLNN đối với môi trường du lịch còn nhiều bất cập: Môi trường tự nhiên với vấn đề xử lý rác thải tại các khu du lịch hầu như chưa được giải quyết, đặc biệt là các khu du lịch biển. Nhiều khu di tích, danh thắng chưa có nhà vệ sinh đạt chuẩn phục vụ khách du lịch. Việc xử lý, phản ứng trước những bất đồng giữa khách và đơn vị KDDL trên địa bàn còn chậm. Một số đơn vị kinh doanh vẫn còn tư tưởng kinh doanh manh mún, chộp giật, cạnh tranh thiếu lành mạnh làm ảnh hưởng không nhỏ đến hình ảnh du lịch Thanh Hóa, đặc biệt, theo kết quả đánh giá của các đối tượng khảo sát thì hoạt động kiểm soát và giảm thiểu ô nhiễm trong quá trình tạo ra và tiêu dùng sản phẩm du lịch đã được thực hiện tuy nhiên chưa đảm bảo đúng quy định.

* Nguyên nhân chủ quan

- Trình độ, năng lực của một bộ phận CBQL còn hạn chế, chưa đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ, hiệu quả quản lý của một số cơ quan chức năng chưa cao, tính chủ động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, vướng mắc của cán bộ phụ trách du lịch các cấp chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Một số cán bộ làm công tác QLNN về du lịch còn thiếu nghiệp vụ chuyên ngành du lịch hoặc dịch vụ liên quan, trình độ ngoại ngữ chưa đáp ứng được yêu cầu.


- Bộ máy tổ chức quản lý HĐDL còn thiếu đồng bộ, chưa có sự phối hợp, phân chia nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng giữa các ban, ngành liên quan, đặc biệt là đối với ban chỉ đạo PTDL.

- Công tác xúc tiến đầu tư vào du lịch, cơ sở hạ tầng còn thiếu và chưa đồng bộ, cơ quan QLNN chưa xây dựng và ban hành được các cơ chế, chính sách thực sự hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư, công tác quy hoạch chưa còn nhiều bất cập; việc chấp hành các quy định về quản lý đầu tư còn chưa nghiêm; chất lượng công tác quy hoạch, quản lý dự án đầu tư vẫn còn bất cập, một số dự án đầu tư, nhất là dự án sử dụng vốn vay hiệu quả chưa cao…

- Sự phối kết hợp trong quản lý HĐDL giữa các cơ quan chức năng của tỉnh chưa thực sự chặt chẽ trong khi đó lại chưa phân định một cách rõ ràng trách nhiệm và lợi ích của các cấp, các ngành và cộng đồng dân cư trong quản lý các HĐDL tại các khu, điểm du lịch. Việc phối hợp, liên kết giữa các Sở, Ngành, địa phương để hỗ trợ, thúc đẩy PTDL ở địa phương chưa được triển khai đồng bộ và quyết liệt.

- Nguồn nhân lực du lịch còn hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng, đặc biệt chất lượng đội ngũ hướng dẫn viên, thuyết minh viên còn nhiều hạn chế, trong đó tỷ lệ chưa được đào tạo một cách bài bản còn khá cao.

- Việc ứng dụng CNTT trong quản lý, điều hành HĐDL còn hạn chế, khả năng cung cấp, nắm bắt thông tin chưa kịp thời, hiệu quả, hiệu lực quản lý chưa cao.

- Công tác bảo vệ tài nguyên, bảo vệ tôn tạo các điểm du lịch, cảnh quan, môi trường phục vụ PTDLBV tỉnh Thanh Hóa còn chưa được chú trọng.

* Nguyên nhân khách quan

- Liên kết trong HĐDL của tỉnh Thanh Hóa với các tỉnh, thành phố khác trong nước chưa chặt chẽ , còn tình trạng chồng chéo, chia cắt trong sự phân công, phân cấp quản lý giữa ngành và lãnh thổ. Sự liên kết PTDL mới dừng lại ở các cơ quan QLNN trong một số nội dung nhất định (chủ yếu là các thỏa thuận chung liên quan đến công tác quảng bá, kết nối tour tuyến du lịch); liên kết giữa các doanh nghiệp của địa phương với doanh nghiệp các tỉnh, thành khác còn yếu kém, chưa có đơn vị đầu tàu đứng ra kết nối các doanh nghiệp lữ hành địa phương với các doanh nghiệp lữ hành của các tỉnh, thành khác trong cả nước.

- Nhận thức về du lịch của của người dân, khách du lịch và doanh nghiệp còn chưa đầy đủ, chưa xem du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn, chưa nhận thức đúng về PTDLBV phải đi đôi với bảo vệ môi trường, bảo tồn văn hóa xã hội.

- Công tác kiểm tra, phối kết hợp quản lý cho các cơ quan QLNN về du lịch chưa toàn diện, chặt chẽ, chưa theo kịp với thực tế phát sinh. Việc xử lý các vi phạm trong công tác QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV còn mang nặng


tính hình thức hoặc có xử lý bằng nhiều biện pháp nhưng chưa mang lại hiệu quả nhất định.

- Ảnh hưởng của dịch bệnh Covid19, dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu tác động đến nền kinh tế nói chung và HĐDL nói riêng gây khó khăn cho việc đi du lịch của người dân, dẫn đến doanh thu du lịch của tỉnh năm 2020 giảm mạnh.

Tiểu kết chương 3

Với mục tiêu của chương 3 là: đánh giá thực trạng PTDLBV tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2016-2020 ở 03 khía cạnh: kinh tế, xã hội và môi trường cũng như đánh giá thực trạng nội dung QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV thông qua các tiêu chí đánh giá, và phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV, tác giả đã tiến hành đánh giá các nội dung sau:

- Đánh giá thực trạng PTDLBV tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2016-2020 ở 03 khía cạnh: kinh tế, xã hội và môi trường. Đi sâu đánh giá những tiêu chí PTDLBV tỉnh Thanh Hóa trên 03 khía cạnh: kinh tế, xã hội và môi trường. Kết quả khảo sát, phân tích: có 12 chỉ tiêu thể hiện kết quả đạt giới hạn PTBV, và có tới 13 chỉ tiêu thể hiện kết quả chưa đạt giới hạn PTBV (trong đó có 7 tiêu chí về kinh tế, 2 tiêu chí về xã hội và 4 tiêu chí về môi trường). Do đó, kết quả cho thấy sự PTDL tại Thanh Hóa chưa bền vững.

- Đánh giá thực trạng nội dung QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV thông qua các tiêu chí đánh giá QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV dựa vào các kết quả khảo sát CBQL và các DNDL trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, từ đó rút ra những thành công, hạn chế và nguyên nhân về thực trạng QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV.

- Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV, kết quả khảo sát cho thấy các yếu tố ảnh hưởng theo mức độ giảm dần:

(1) Tài nguyên du lịch; (2) Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội; (3) Quan điểm, đường lối PTDLB; (4) Năng lực QLNN đối với PTDLBV; (5) Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ; (6) Ý thức trách nhiệm của khách DL, cơ sở KDDL và người dân địa phương.

Các kết quả nghiên cứu của chương 3 sẽ làm cơ sở cho việc xác định các định hướng và đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm tăng cường công tác QLNN của tỉnh Thanh Hóa đối với PTDLBV trong chương 4 của luận án.


CHƯƠNG 4. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA TỈNH THANH HÓA ĐÔI VỚI PHÁT TRIỂN

DU LỊCH BỀN VỮNG

4.1. Quan điểm, định hướng tăng cường quản lý nhà nước của tỉnh Thanh Hóa đối với phát triển du lịch bền vững

4.1.1. Bối cảnh phát triển du lịch tại Việt Nam hiện nay

Hiện nay, Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, trong hội nhập quốc tế, HĐDL sẽ chịu tác động của sự di chuyển du khách quốc tế (đặc biệt trong cộng đồng ASEAN) giữa Việt Nam và các quốc gia khác. Nguồn khách quốc tế gia tăng, đã và đang tạo điều kiện cho giao lưu kinh tế và hoạt động văn hóa được giao thoa. Đồng thời, hội nhập quốc tế tạo cơ hội có được hệ thống chính sách hỗ trợ có hiệu quả cho phát triển du lịch và những loại hình du lịch mới. Hội nhập quốc tế sẽ làm lượng du khách gia tăng từ nhiều nước với nhiều mục đích du lịch khác nhau.

Bên cạnh đó, trong hội nhập quốc tế, Việt Nam đã tham gia các tổ chức và Hiệp ước khu vực, thế giới, gia nhập vào thị trường du lịch quốc tế như WTO, các FTA thế hệ mới, Cộng đồng Kinh tế ASEAN, do đó, phải tuân thủ các cam kết, chuẩn mực quốc tế. Chẳng hạn, Cộng đồng Kinh tế ASEAN thừa nhận lẫn nhau về văn bằng của người lao động, về nghề du lịch (MRA-TP), và cho phép chuyển dịch việc làm của người lao động du lịch lành nghề giữa các quốc gia thành viên, đồng thời, công nhận các kỹ năng, văn bằng của người lao động du lịch từ các quốc gia thành viên khác trong ASEAN theo tiêu chuẩn chung. Do đó, người lao động Việt Nam phải trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng để đáp ứng tiêu chuẩn này.

Ngoài ra, nhu cầu du lịch gia tăng làm cho các hình thức du lịch và tour du lịch gia tăng. Ngày nay, các công ty bắt đầu cho phép nhân viên kết hợp những cuộc vui chơi giải trí vào công việc; dân du lịch chuyên nghiệp quan tâm tới những trải nghiệm phiêu lưu hơn như những môn thể thao mạo hiểm (nhảy dù, vượt thác, băng qua rừng, leo núi), lựa chọn một quốc gia, điểm du lịch xa lạ ít người biết tới; hoặc du khách không chú trọng mua sắm hàng hóa chất liệu đắt tiền nữa, thay vào đó, họ quan tâm nhiều hơn đến trải nghiệm trong chuyến đi như thưởng thức ẩm thực địa phương, trải nghiệm hành trình và ngắm cảnh, trải nghiệm cuộc sống ở những con phố náo nhiệt, gặp một người bạn mới tại quán bar xinh xắn, chụp ảnh, tận hưởng từng khoảnh khắc của kỳ nghỉ.

Diễn biến dịch Covid-19 trên thế giới tiếp tục phức tạp, dự báo bức tranh du lịch toàn cầu những tháng đầu năm 2021 vẫn chưa có dấu hiệu tươi sáng. Thị trường nội địa vẫn giữ vai trò cốt yếu, thị trường du lịch quốc tế cần thời gian khôi phục lâu hơn kể cả khi dịch bệnh kết thúc. Năm 2021, ngành du lịch xác định

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 30/03/2023