Sự Tác Động Qua Lại Giữa Chính Sách Quản Lý Ngoại Hối Và Các Nhân Tố Khác Trong Nền Kinh Tế


1.2.2. Mục tiêu của quản lý ngoại hối


Quản lý ngoại hối là một bộ phận của quản lý kinh tế vĩ mô; vì vậy mục tiêu quản lý ngoại hối được quyết định bởi mục tiêu phát triển kinh tế của quốc gia trong từng thời kỳ nhất định. Mục tiêu quản lý ngoại hối tổng thể mà hầu hết các quốc gia đều phấn đấu là đạt được sự cân đối giữa nền kinh tế đối nội và kinh tế đối ngoại.

Để đạt được các mục tiêu này quản lý ngoại hối phải đảm bảo các yêu cầu

sau:


1.2.2.1 Đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế


Cán cân thanh toán quốc tế của một quốc gia gồm cán cân vãng lai, cán cân vốn và tài sản dự trữ. Sự tăng giảm các khoản mục trong cán cân thanh toán làm nảy sinh cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế; và ngược lại, những thay đổi trong quản lý ngoại hối sẽ tác động mạnh đến chu chuyển ngoại tệ của đất nước. Hoạt động quản lý ngoại hối được xem là hiệu quả khi nó đảm bảo khả năng chi trả của một quốc gia trong từng thời kỳ. Khi cán cân thanh toán thâm hụt, chính phủ phải hướng hoạt động quản lý ngoại hối sao cho hạn chế nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư, tập trung nguồn ngoại tệ trong dân cư… nhằm hạn chế thâm hụt. Và ngược lại, với các quốc gia thặng dư trong cán cân thanh toán nguồn ngoại tệ dồi dào sẽ làm tăng giá trị bản tệ mà hậu quả của nó là làm giảm sút khả năng cạnh tranh của những nước này trên thị trường thế giới. Trong trường hợp này, chính phủ cần thiết lập các biện pháp quản lý ngoại hối để khuyến khích hoạt động đầu tư hải ngoại, tận dụng các tiềm năng kinh tế, đẩy mạnh sản xuất và phát triển giao thương quốc tế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.

1.2.2.2. Ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát


Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập - 3

Theo học thuyết ngang giá sức mua, tỷ giá của 2 đồng tiền thể hiện mối tương quan về sức mua của hai đồng tiền, do vậy tỷ giá có mối quan hệ chặt chẽ với giá cả. Trong chế độ tỷ giá thả nổi, tỷ giá thường xuyên biến động nhưng giá


cả hàng hoá cần ổn định để nâng cao đời sống người dân, khuyến khích sản xuất phát triển…Như vậy, trong quản lý ngoại hối chính phủ cần thiết lập các giải pháp hữu hiệu để can thiệp, chấn chỉnh kịp thời tính bất ổn của tỷ giá góp phần ổn định thị trường, phát triển sản xuất, đồng thời tạo tâm lý an tâm cho các nhà đầu tư.

Giữ vững giá trị bản tệ, kiềm chế lạm phát là một trong những mục tiêu quan trọng của quản lý ngoại hối. Trong nền kinh tế mở, giá trị bản tệ được thiết lập dựa trên cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Khi cung cầu biến động theo chiều hướng bất lợi, thông qua các biện pháp như: thiết lập cơ chế xác định tỷ giá, quy định tỷ lệ kết hối, co giãn biên độ mua bán ngoại tệ, kết hợp với các chính sách lãi suất, tín dụng…chính phủ có thể tác động đến cung cầu tiền tệ nhằm duy trì mức tỷ giá nhất định để giữ giá trị bản tệ, kiểm soát lạm phát.

1.2.2.3. Kiểm soát tình trạng đô la hoá nền kinh tế


Thực tế cho thấy, đối với các nước vừa chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá sang cơ chế thị trường, hiện tượng đô la hoá (ĐLH) nền kinh tế có nguy cơ ngày càng tăng cao. Đô la hoá là hiện tượng công dân của một quóc gia (khu vực) sử dụng ngoại tệ mạnh có khả năng chuyển đổi cao- chủ yếu là USD- làm phương tiện dự trữ, công cụ thanh toán, thậm chí làm thước đo giá trị. Hiện tượng này được biểu hiện dưới hai hình thức; một là, số lượng ngoại tệ lưu thông trong nền kinh tế cao; hai là, xu hướng chuyển từ bản tệ sang ngoại tệ mạnh khi có một biến động bất thường trong nền kinh tế vĩ mô cao.

Trong những điều kiện cụ thể, ĐLH có thể phát huy những mặt tích cực như tăng cung ngoại tệ, giảm áp lực lạm phát hoặc làm chỗ dựa cho nền kinh tế khi đồng bản tệ quá suy yếu. Nếu lạm dụng, để kéo dài với mức độ cao thì ĐLH sẽ gây tác hại ở thời kỳ sau, đặc biệt khi đồng nội tệ đã phục hồi và nền kinh tế đang phát triển. Cụ thể, ĐLH làm mất chủ quyền về tiền tệ, làm cho thị trường ngoại hối kém phát triển do các quan hệ vay - trả bằng ngoại tệ lấn át các quan hệ mua bán ngoại tệ. ĐLH làm giảm khả năng chuyển đổi của đồng tiền, tạo


điều kiện cho buôn lậu phát triển, ảnh hưởng tiêu cực tới sản xuất trong nước. Nhà nước không những thất thu về thuế mà còn mất cả nguồn thu từ việc phát hành đồng nội tệ. Về dài hạn, ĐLH có những tác động tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế bền vững do nó làm giảm chất lượng hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ, giảm hiệu quả của chính sách tỷ giá, tạo ra nguy cơ mất an toàn hệ thống ngân hàng vì NHTW không thực hiện được vai trò ―Người cho vay cuối cùng‖ của mình.

1.2.3. Công cụ quản lý ngoại hối


1.2.3.1. Tỷ giá


Mức độ tác động của công cụ tỷ giá đến hiệu quả quản lý ngoại hối phụ thuộc việc lựa chọn chế độ tỷ giá của Chính phủ. Trong chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, tỷ giá được quyết định hoàn toàn theo quy luật cung cầu tiền tệ. Điều này có nghĩa Chính phủ không thể can thiệp trực tiếp vào việc hình thành tỷ giá và không thể sử dụng tỷ giá làm phương tiện điều tiết chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia. Nói cách khác, trong chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, vai trò của công cụ tỷ giá trong việc điều hành chính sách quản lý ngoại hối là rất mờ nhạt.

Dưới chế độ tỷ giá thả nổi có kiểm soát và cố định tỷ giá, Chính phủ các nước luôn tác động vào tỷ giá và sử dụng nó như một phương tiện hữu hiệu để thực hiện mục tiêu quản lý ngoại hối. Trong quản lý vĩ mô nền kinh tế, các Chính phủ luôn dùng tỷ giá làm công cụ thực hiện chiến lược đối ngoại, kích thích ngoại thương, mở rộng nguồn vốn nước ngoài…nhằm khơi nguồn ngoại hối và góp phần củng cố giá trị bản tệ và bình ổn giá cả.

Tuỳ theo chính sách quản lý ngoại hối trong từng thời kỳ mà cơ chế điều hành tỷ giá có thể thay đổi. Chẳng hạn, để phục vụ cho chính sách nhà nước độc quyền quản lý ngoại hối, Chính phủ sử dụng chế độ tỷ giá cố định và duy ý chí. Ngược lại chế độ tỷ giá linh hoạt được xem là phù hợp với chính sách tự do hoá ngoại hối.


Như vậy, mục tiêu của chính sách tiền tệ nói chung và của hoạt động kiểm soát ngoại hối nói riêng là yếu tố quan trọng mang tính quyết định trong việc lựa chọn tỷ giá. Tuy nhiên, do tỷ giá là một phạm trù rất phức tạp, nên trong quá trình vận hành, tỷ giá luôn tác động ngược lại hiệu quả quản lý ngoại hối. Nó sẽ chỉ ra những khiếm khuyết, những chỗ chưa phù hợp với chính sách quản lý ngoại hối và quyết định hiệu quả công việc quản lý ngoại hối.

1.2.3.2 Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng


Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là một phần của thị trường hối đoái. Đó là nơi các định chế tài chính trung gian của một quốc gia trao đổi, mua bán ngoại hối. Nói cách khác, trong phạm vi một quốc gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là điểm gặp gỡ cung và cầu ngoại tệ và là nơi xác định tỷ giá. Thông qua thị trường, NHTW- cơ quan quản lý tiền tệ của Chính phủ- có thể nắm bắt thông tin, kiểm soát, quản lý, điều tiết tỷ giá nhằm thực hiện mục tiêu của chính sách ngoại hối. Bằng việc đặt lệnh mua, lệnh bán cuối cùng, NHTW sẽ điều tiết hoạt động ngoại hối của các tổ chức tài chính trung gian và ổn định tiền tệ. Cụ thể, khi cung ngoại tệ vượt cầu ngoại tệ, làm giá ngoại tệ giảm quá mức cho phép, NHTW sẽ đặt lệnh mua ngoại tệ nhằm giảm áp lực nâng giá bản tệ; và ngược lại, khi cầu ngoại tệ vượt cung, bản tệ có nguy cơ mất giá mạnh, gây bất lợi cho chính sách tài chinh quốc gia, NHTW sẽ bán ngoại tệ từ quỹ dự trữ ngoại tệ để điều hoà nhằm làm giảm cơn khát ngoại tệ của nền kinh tế

1.2.3.3. Kết hối


Kết hối là việc cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ phải bán ngoại tệ theo một tỷ lệ nhất định, trong một thời hạn xác định, cho định chế tài chính được phép kinh doanh ngoại tệ. Kết hối là công cụ của NHTW nhằm tập trung nguồn ngoaị tệ cho các nhu cầu ngoại hối hợp lý của quốc gia trong từng thời kỳ.

Về bản chất kết hối là công cụ kiểm soát trực tiếp, áp đặt của NHTW. Công cụ này thường được áp dụng trong trường hợp niềm tin của công chúng


vào bản tệ bị suy giảm, nguồn dự trữ ngoại hối của quốc gia không đáp ứng đủ cung ngoại tệ của nền kinh tế. Cũng như các công cụ kiểm soát ngoại hối khác, chính sách kết hối chỉ có tác dụng trong ngắn hạn, nếu duy trì lâu nó sẽ tác động xấu làm giảm hiệu quả quản lý ngoại hối như hạn chế xuất khẩu, gia tăng rủi ra cho các doanh nghiệp thực hiện nghiệp vụ ngoại thương…

Khi nền kinh tế tương đối ổn định, thị trường hối đoái hoạt động hiệu quả, quỹ dự trữ ngoại tệ của quốc gia tương đối dồi dào, bản tệ tạo được niềm tin trong công chúng… kết hối sẽ không còn ý nghĩa, vì lúc này các tổ chức có nguồn thu ngoại tệ sẽ tự nguyện bán ngoại hối và nắm giữ tài sản của mình bằng ngoại tệ.

1.2.3.4. Nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ


Trong nền kinh tế thị trường, hoán đổi tiền tệ không chỉ là một nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ đơn thuần mà nó còn là công cụ của chính sách quản lý ngoại hối giúp NHTW điều hoà tiền tệ và lưu thông và quản lý quỹ dự trữ ngoại tệ một cách hiệu quả.

Thật vậy, khi tài sản nợ ngoại tệ tại NHTM tăng đột biến, trong khi mức tăng tài sản có ngoại tệ không tương xứng; nhu cầu vay bản tệ trong nền kinh tế tăng cao; NHTW có thể mua trao ngay đồng thời bán kỳ hạn một lượng ngoại tệ nhất định cho các NHTM. Qua nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ, NHTW không những kiểm soát được lượng tiền bơm ra tiền ngoài lưu thông mà còn giúp các NHTM thảo mãn nhu cầu vốn của khách hàng; đồng thời cân bằng trạng thái ngoại hối.

Bên cạnh các công cụ nêu trên, để hoạt động quản lý ngoại hối có thể hiệu quả, NHTW cần có sự phối hợp hài hoà, đồng bộ với các chính tài chính tiền tệ khác như: lãi suất, tín dụng, đầu tư quốc tế, thuế….

1.3. SỰ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NGOẠI HỐI VÀ CÁC NHÂN TỐ KHÁC TRONG NỀN KINH TẾ


1.3.1. Chính sách quản lý ngoại hối là công cụ thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại, hỗ trợ chính sách ngoại thương và đầu tư quốc tế.

Chính sách quản lý ngoại hối và chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ này, chính sách kinh tế đối ngoại là yếu tố quyết định chiến lược, phương hướng hoạt động của chính sách ngoại hối; chính sách ngoại hối là một trong các phương tiện hữu hiệu góp phần thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại. Khi một nước với mục tiêu mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, thì nước đó sẽ tiến hành nới lỏng quản lý ngoại hối như tiến hành tự do hoá các giao dịch vãng lai, tự do hoá một số giao dịch vốn nhằm tạo điều kiện cho hoạt động ngoại thương và đầu tư quốc tế. Và với một chính sách quản lý ngoại hối phù hợp sẽ góp phần tăng nguồn dự trữ ngoại hối quốc gia, đảm bảo nguồn cung và cầu ngoại tệ, tạo sự bình ổn tỷ giá, giảm bớt sự lệ thuộc vào bên ngoài, tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức linh hoạt và chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình. Từ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển.

Một trong các yếu tố cơ bản của quản lý ngoại hối là cơ chế điều hành tỷ giá. Tỷ giá là công cụ đo lường giá trị giữa các đồng tiền, vì vậy nó có tác dụng như một công cụ cạnh tranh trong thương mại và giao lưu quốc tế. Mức độ hướng ngoại cuả nền kinh tế càng cao bao nhiêu, thì mối quan hệ giữa bản tệ và ngoại tệ càng lớn bấy nhiêu. Vì vậy, dù các giao dịch hối đoái ra đời từ các hoạt động tài chính, thương mại, đầu tư quốc tế, nhưng khi đã hình thành, cơ chế tỷ giá nói riêng và chính sách ngoại hối nói chung sẽ tác động mạnh mẽ các giao dịch trên.

Thật vậy, trong thương mại quốc tế, khi bản tệ hạ giá so với ngoại tệ, hang xuất khẩu tính bằng ngoại tệ sẽ trở nên rẻ hơn, điều này làm nâng cao khả năng cạnh tranh của quốc gia đó trong thương trường quốc tế; đồng thời làm giảm nhu cầu nhập khẩu do hàng hoá nước ngoài tính bằng bản tệ trở nên đắt hơn. Tuy nhiên, nếu tình trạng phá giá bản tệ kéo dài, tác động này sẽ giảm hiệu


lực, do giá cao của hàng nhập (nguyên vật liệu) được chuyển vào giá thành hàng xuất đẩy giá hàng xuất khẩu lên cao làm triệt tiêu các lợi điểm do tỷ giá mang lại. Tương tự, khi bản tệ được đánh giá cao so với ngoại tệ, hoạt động nhập khẩu được khuyến khích do hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn, và hoạt động xuất khẩu bị hạn chế do giá hàng trở nên đắt hơn. Nếu tình trạng này bị kéo dài, cán cân vãng lai sẽ bị thâm hụt.

Trong lĩnh vực đầu tư quốc tế, chính sách quản lý ngoại hối góp phần đáng kể trong việc khơi tăng và sử dụng hiệu quả nguồn vốn nước ngoài. Một cơ chế tỷ giá hợp lý, phản ánh đúng gía trị bản tệ sẽ tạo tâm lý an tâm cho các nhà đầu tư quốc tế. Một chính sách quản lý ngoại hối thông thoáng, linh hoạt, phù hợp với sự biến động của nền kinh tế quốc gia và nền kinh tế toàn cầu là một trong những yếu tố căn bản hạn chế rủi ro tỷ giá, rủi ro quốc gia. Đây là giải pháp quan trọng trong việc khơi tăng nguồn vốn nước ngoài.

1.3.2. Chính sách quản lý ngoại hối là một bộ phận trong chính sách tiền tệ


Chính sách tiền tệ bao gồm chính sách lãi suất, tín dụng, đầu tư….và quản lý ngoại hối. Là một phần của chính sách tiền tệ, nên chính sách quản lý ngoại hối có mối quan hệ chặt chẽ với chính sách tiền tệ. Mối quan hệ này được hiểu ở hai góc độ; một là, mục tiêu của chính sách quản lý ngoại hối được định đoạt bởi chính sách, phương hướng phát triển của chính sách tiền tệ; hai là, chính sách quản lý ngoại hối có mối quan hệ tương hỗ với các chính sách tiền tệ khác.

Thứ nhất, chính sách tiền tệ quyết định mục tiêu của chính sách quản lý ngoại hối. Thật vậy, tuỳ theo mục đích mở rộng hay thắt chặt mà Chính phủ ban hành các quy chế kiểm soát ngoại hối tương xứng. Chẳng hạn, để đối phó với lạm phát, ổn định tiền tệ, cơ chế tỷ giá phải được thiết lập sao cho giữ vững giá trị bản tệ so với ngoại tệ; nguồn cung ngoại tệ trong nền kinh tế bị kiểm soát chặt chẽ; các NHTM phải xem xét cẩn trọng trước khi cung ứng ngoại tệ cho khách hàng; mọi hoạt động chuyển ngoại tệ ra nước ngoài bị kiểm soát chặt


chẽ…Ngược lại, để kích thích nền kinh tế tăng trưởng, Chính phủ có thể nới lỏng chính sách quản lý ngoại hối và linh hoạt hoá cơ chế tỷ giá.

Thứ hai, để chính sách tiền tệ được thực hiện một cách hiệu quả, nội dung quản lý ngoại hối phải phù hợp với các quy định trong chính sách tín dụng, đầu tư, dự trữ bắt buộc…trong từng thời kỳ nhất định. Đây là mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố cấu thành nên chính sách tiền tệ. Nếu việc phối hợp giữa các chính sách bộ phận không hoàn mỹ, hiệu quả của chính sách tiền tệ sẽ giảm sút nghiêm trọng. Chẳng hạn, để đối phó với hiện tượng đô la hoá nền kinh tế ngày càng gia tăng phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các yếu tố: lãi suất ngoại tệ, lãi suất bản tệ. tỷ giá. Theo đó, các quy định cho vay bằng ngoại tệ phải được mở rộng tối đa trong phạm vi cho phép, tỷ lệ dự trữ bắt buộc của bản tệ và ngoại tệ phải thay đổi theo hướng nâng cao mức dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ và hạ thấp mức dự trữ đối với bản tệ.

1.3.3. Chính sách quản lý ngoại hối quyết định khả năng chuyển đổi của bản tệ.

Tính chuyển đổi của đồng tiền được hiểu nôm na là việc tự do sử dụng và trao đổi tiền tệ theo một tỷ giá nhất định. Theo nghĩa rộng, khả năng chuyển đổi hoàn toàn của đồng tiền cho phép người sở hữu nó có thể chuyển đổi thường xuyên, không hạn chế bản tệ với bất kỳ đồng tiền nào trên thế giới theo một tỷ giá xác định.

Khả năng chuyển đổi của đồng tiền có nhiều mức độ khác nhau. Theo IMF, một đồng tiền được xem là có khả năng chuyển đổi khi Chính phủ cam kết việc không hạn chế chuyển đổi tiền tệ trong các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn, và các chu chuyển khác. Trong đó, yêu cầu tối thiểu là tiền tệ phải có khả năng chuyển đổi trên tài khoản vãng lai. Nói cách khác, một đồng tiền được xem là có khả năng chuyển đổi tối thiểu khi nó được tự do chuyển đổi trên tài khoản vãng lai. Các đồng tiền mạnh trên thế giới đều có khả năng chuyển đổi cao.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 08/09/2022