Sản Lượng Sản Xuất Muối Của Việt Nam‌


hiện nay đã gây thất thoát một lượng lớn tài nguyên thiên nhiên. Từ hoạt động khai thác than bất hợp pháp còn dẫn tới nhiều hậu quả xấu là phá hủy môi trường sinh thái, mất an toàn lao động,…

Than Quảng Ninh là loại khoáng sản lộ thiên, ở ven biển. Do đó, việc khai thác than trở ra biển để bán cho phía nước ngoài là khá dễ ràng nên thường dẫn tới tính trạng xuất khẩu lậu than.

Bên cạnh những vấn đề trên thì vấn đề về thiếu vốn và khoa học công nghệ để khai thác các mỏ than khác của Việt Nam cũng là một trong những vấn đề đặt ra hiện nay cho Việt Nam.

c) Làm muối

Những thành tựu đạt được

Việt Nam là quốc gia nhiệt đới có đường bờ biển dài (3.260 km), nước biển có độ mặn cao, số giờ nắng cao, đây chính là điều kiện thuận lợi cho việc làm muối. Làm muối là ngành trực tiếp chịu sự quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Đây là ngành luôn được Đảng và Nhà nước khuyến khích phát triển. Tuy nhiên, ngành muối Việt Nam luôn phải đối mặt với nhiều thách thức do đây là ngành đòi hỏi lao động nặng nhọc, giá trị gia tăng thấp.

Chính phủ cùng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã đưa nhiều giải pháp để phát triển ngành muối nhưng tới nay vẫn chưa thực sự phát huy được hiệu quả. Từ năm 1997, Chính phủ đã có Quyết định số 980/1997/QĐ- TTg về việc phê duyệt Quy hoạch sản xuất - lưu thông muối đến năm 2000 - 2010. Tới 5/2/2007, Chính phủ lại có Quyết định số 161/QĐ-TTg, phê duyệt Quy hoạch phát triển sản xuất muối đến năm 2010 và năm 2020 (25).

Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với ngành muối

- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố có sản xuất muối tổ chức, chỉ đạo phát triển sản xuất muối; xây dựng và triển khai các dự án đầu tư phát triển sản xuất muối theo quy hoạch.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.

- Bộ Công nghiệp chịu trách nhiệm quy hoạch và chỉ đạo triển khai xây dựng các nhà máy hóa chất có sử dụng nguyên liệu là muối và các phụ

phẩm từ sản xuất muối (thạch cao, nước ót) gắn với vùng sản xuất


muối tập trung để nâng cao hiệu quả sản xuất muối và đáp ửng nhu cầu sản phẩm cho tiêu dùng.

- Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố có sản xuất muối tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển sản xuất muối trên địa bàn; chỉ đạo xây dựng các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng phát triển sản xuất muối; thực hiện lồng ghép nguồn vốn của các chương trình, dự án để thực hiện quy hoạch phát triển sản xuất muối có hiệu quả; có chỉnh sách khuyến khích hỗ trợ thu hút các nguồn lực đầu tư vào lĩnh vực phát triển ngành muối và hỗ trợ diêm dân chuyển đổi nghề ở những nơi sản xuất muối không hiệu quả;

Việt Nam hiện nay có 20 tỉnh thành có nghề sản xuất muối biển với

tổng diện tích hơn 12 nghìn ha và sản lượng bình quân đạt từ 800 nghìn tấn đến 1 triệu tấn muối mỗi năm, tạo việc làm cho hơn 90 nghìn lao động.


Nguồn Tổng cục Thống kê Việt Nam Hình 3 6 Sản lượng sản xuất muối của 1

Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam

Hình 3.6: Sản lượng sản xuất muối của Việt Nam‌

Hoạt động đầu tư về vốn, công nghệ sản xuất trên đồng muối có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng xã hội hoá. Ngoài nguồn vốn xây dựng cơ bản của ngành nông nghiệp dành để đầu tư một số dự án về muối, ngành muối đang tập trung tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào các dự án sản xuất, chế biến, tiêu thụ muối công nghiệp. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang đẩy mạnh cổ phần hoá toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước trong ngành muối; xây dựng chính sách đầu tư cho vùng muối để đảm bảo đáp ứng nhu cầu tiêu dùng muối của nhân dân, ngành Công nghiệp và các ngành khác30.

30 Tư liệu (2010), Phát triển kinh tế biển Việt Nam, Viện Quản lý Trung ương, Bộ Kế học và Đầu tư.


Những vấn đề còn tồn tại

Hiện nay, ngành muối của Việt Nam chưa hội tụ đủ các yếu tố để phát triển ổn định và bền vững. Diện tích quy hoạch các vùng sản xuất muối luôn bị thay đổi. Nhiều địa phương vùng biển lại không mặn mà với nghề muối do thu nhập thấp từ nghề này thấp lại phải lao động vất vả. Nguồn thu cho ngân sách lại không nhiều nên lãnh đạo địa phương chưa quan tâm đầy đủ đến việc chỉ đạo và tạo nguồn vốn đầu tư phát triển ngành này cũng như hỗ trợ cho diêm dân.


Phần lớn diện tích, sản lượng, lao động trong ngành muối của Việt Nam

đang duy trì phương pháp sản xuất muối truyền thống với phương tiện lạc hậu, thao tác thủ công, quy mô nhỏ, phân tán, cho nên năng suất và chất lượng sản phẩm thấp. Sự liên kết chặt chẽ giữa “bốn nhà” là nhà nước, nhà nông, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp để lo cho sản phẩm muối còn mang tính hình thức (như công bố giá sàn vào đầu vụ, mô hình hợp tác xã kiểu mới,…).

3.2.4.4. Quản lý khai thác hải sản biển Việt Nam

a) Những thành tựu đạt được

Thành tựu về phát triển

Biển Việt Nam có hơn 2.000 loài cá, trong đó có gần 130 loài cá giá trị kinh tế cao và hàng trăm loài được đưa vào sách đỏ Việt Nam và thế giới, 1.600 loài giáp xác, 2.500 loài thân mềm, cho khai thác 45.000-50.000 tấn rong biển... Hoạt động khai thác hải sản Việt Nam đã phát triển vượt bậc, sản lượng đánh bắt hải sản của Việt Nam tăng đều qua các năm. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, Việt Nam năm 2010 khai thác trên 1,6 triệu tấn cá biển, tăng 60% so với năm 2000. Theo VASEP, năm 2011, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã cán đích 6,1 tỷ USD, tăng 21% so với năm 2010 và tăng gấp hơn 3 lần so với

mức 2 tỷ

USD năm 200231. Hiện Việt Nam trở

thành 1 trong 4 cường quốc

đứng đầu về xuất khẩu thủy sản trên thế giới. Trong khu vực, có các nước đánh bắt và nuôi trồng hải sản đứng hàng đầu thế giới như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia và Philippines, trong đó, Trung Quốc là nước đánh bắt cá lớn nhất thế giới (khoảng 4,38 triệu tấn/năm), Thái Lan đứng thứ 10 thế

31 Lê Hằng theo VASEP (2012), Xuất khẩu thủy sản đạt 6,11 tỷ USD, Tạp chí Thủy sản thuysanvietnam.com.vn


giới (với khoảng 1,5 - 2 triệu tấn/năm). Hiện cả khu vực đánh bắt khoảng 7 -

8% tổng sản lượng đánh bắt cá trên toàn thế giới32.

Số lượng tàu thuyền cũng tăng đều qua các năm. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam, năm 2000, Việt Nam có 9.766 chiếc tàu cá đánh bắt xa bờ (tổng công suất là 1.385,1 nghìn CV) thì tới năm 2011 Việt Nam có 28.424 tàu đánh bắt xa bờ (tổng công suất là 5.264,3 nghìn CV). Như vậy, năm 2011 so với năm 2000 thì số tàu cá đánh bắt xa bờ của Việt Nam đã tăng gấp 3 lần.

Doanh số xuất khẩu thủy sản tăng liên tục qua các năm với mức tăng khoảng 20% mỗi năm. Thị trường xuất khẩu thủy hải sản chủ yếu của Việt Nam là sang Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và EU. Tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm 2000 là 1.478,5 triệu USD thì tới năm 2010 là 5.016,3 triệu USD, tăng thêm 239%. Sản phẩm xuất khẩu thủy sản chủ yếu của Việt Nam là Mực đông lạnh, Tôm đông lạnh và Cá đông lạnh.

Chính sách phát triển ngành khai thác hải sản


Để khuyến khích phát triển ngành khai thác hải sản, Chính phủ đã có

nhiều biện pháp, chính sách cụ thể là: Chính phủ cho thành lập ban chỉ đạo nhà nuớc về chương trình đánh bắt hải sản xa bờ vào tháng 4/1997; Quốc hội ban hành Luật Thủy sản năm 2003,…

Các chính sách phát triển ngành hải sản Việt Nam đều nhấn mạnh, khai thác hải sản là nghề biển truyền thống có thế mạnh của nước ta, là lực lượng nòng cốt trong việc thực hiện ba mục tiêu chiến lược phát triển ngành thủy sản Việt Nam: “Khai thác tiềm năng nguồn lợi hải sản tạo sản phẩm cung cấp cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; tạo công ăn việc làm, thu nhập, cải thiện đời sống ngư dân các tỉnh ven biển; đảm bảo sự hiện diện, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên các vùng biển”.

Cơ quan quản lý nhà nước đối với ngành khai thác hải sản

Cơ quan quản lý nhà nước về thủy sản hiện nay là Tổng cục Thuỷ sản. Đây là cơ quan trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý nhà nước và thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về thuỷ sản; quản lý,

32 Hoàng Hạnh (2012), Vì sao Trung Quốc cố tình gây căng thẳng Biển Đông?, Báo mới, baomoi.com.


chỉ đạo các hoạt động dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Tổng cục.

Nhiệm vụ quản lý khai thác hải sản Việt Nam của Tổng cục Thủy sản Việt Nam được cụ thể hóa như sau:

(1) Về phát triển nguồn lợi hải sản

- Hướng dẫn, chỉ đạo việc điều tra, nghiên cứu, đánh giá và bảo vệ môi trường sống của các loài thuỷ sản; bảo tồn và phát triển nguồn lợi thuỷ sản;

- Xây dựng danh mục các loài thuỷ sản đã được ghi trong sách đỏ Việt Nam và các loài thuỷ sản khác bị cấm khai thác, cấm khai thác có thời hạn; các quy định về phương pháp khai thác, nghề, phương tiện, mùa vụ, khu vực khai thác để bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản;


- Xây dựng tiêu chuẩn để

phân loại và công bố

các khu bảo tồn; quy

hoạch, xây dựng và phân cấp quản lý các khu bảo tồn vùng nước nội địa, khu bảo tồn biển; quy chế quản lý khu bảo tồn có tầm quan trọng quốc gia và quốc tế.


(2) Về khai thác thuỷ sản:


- Hướng dẫn, chỉ

đạo tổ

chức lại sản xuất, chuyển đổi cơ

cấu nghề

nghiệp trong hoạt động khai thác thuỷ sản ở vùng biển ven bờ;

- Chỉ đạo và tổ chức việc điều tra, đánh giá nguồn lợi thuỷ sản


ở từng

vùng biển, ngư trường, vùng sông, hồ lớn; dự báo và công bố ngư trường, vùng

khai thác thuỷ

sản, xác định sản lượng khai thác cho phép hàng năm

ở từng

vùng biển, ngư trường; xây dựng hệ thống thông tin quản lý khai thác, khuyến khích phát triển khai thác thuỷ sản xa bờ;


- Phân vùng biển, phân tuyến khai thác thuỷ sản; phân công, phân cấp

quản lý và quy chế vùng khai thác thuỷ sản. Hướng dẫn thực hiện quy chế vùng khai thác thuỷ sản;

- Xây dựng quy định trình tự, thủ tục, phân cấp thẩm quyền cấp, thu hồi Giấy phép khai thác thuỷ sản; quy định mẫu sổ, chế độ quản lý và nội dung của nhật ký khai thác thuỷ sản; nội dung, chế độ báo cáo khai thác thuỷ sản;


- Hướng dẫn việc phòng, tránh và giảm nhẹ tác hại của thiên tai trong khai

thác thuỷ sản.


(3) Về nuôi trồng thuy năm qua. Nguyên nhân:

san

: đạt được nhiều thành tích nổi bật trong những

- Hướng dẫn việc giao, cho thuê, thu hồi đất, mặt nước để nuôi trồng thuỷ sản theo quy định;

- Hướng dẫn, chỉ đạo vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung. Xây dựng quy định tiêu chuẩn chất lượng nước cho nuôi trồng thuỷ sản; tiêu chuẩn kỹ thuật chuyên ngành của công trình nuôi trồng thuỷ sản; quy chế tổ chức, hoạt động của vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung;


- Hướng dẫn và kiểm tra về giống, thức ăn, cac

loại hoa

chất, thuốc, cac

chế phẩm sinh hoc; phòng trừ bệnh thuỷ sản và quản lý môi trường trong nuôi

trồng thuy san;


- Hướng dẫn, kiểm soát buôn bán, di nhập và xuất khẩu các giống thuỷ sản,

các loài thuỷ sản quý hiếm, đang bị đe dọa có nguy cơ tuyệt chủng. Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động khảo nghiệm, kiểm định, kiểm nghiệm trong nuôi trồng thuỷ sản.


(4) Quản lý tàu cá và cơ sở dịch vụ hoạt động thuỷ sản:

- Hướng dẫn, phê duyệt hồ sơ thiết kế đóng mới, cải hoán tàu cá; tiêu chuẩn chất lượng, an toàn kỹ thuật; tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường của tàu cá theo quy định;


- Tổ

chức

thực hiện việc đăng kiểm đối với tàu cá thuộc trách nhiệm

quản lý của Tổng cục;

- Xây dựng và ban hành quy chế mẫu về quản lý cảng cá, bến cá, khu neo đậu trú bão của tàu cá; tiêu chuẩn kỹ thuật của cảng cá, khu neo đậu trú bão của tàu cá; quy chế mẫu về quản lý và tiêu chuẩn kỹ thuật của chợ thuỷ sản đầu mối.

b) Những vấn đề còn tồn tại

Tuy hoạt động khai thác hải sản phát triển nhanh qua các năm nhưng vẫn


còn nhiều bất cập, đặc biệt là trong công tác quản lý khai thác, bảo tồn và phát

triển nguồn lợi hải sản. Cụ thể là:

- Do buông lỏng quản lý nên đã dẫn tới hoạt động khai thác hải sản ven bờ của Việt Nam hiện nay đang đứng trước nguy cơ khai thác quá mức làm cạn kiệt nguồn lợi hải sản. Qua thực tế một số vùng ven biển như Hà Tiên - Kiên Giang, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Phú Quốc thì nhiều nguồn lợi hải sản ven bờ gần như không còn. Các tỉnh thành này cũng đã bắt đầu nhận thức được điều này nên đã có một số biện pháp hạn chế khai thác như không cấp phép cho những tàu có công suất nhỏ để khai thác ven bờ, quy định khai thác theo mùa,… Mặt khác do hạn chế về nguồn vốn đầu tư nên nhiều tỉnh thành có khuyến khích đánh bắt xa bờ nhưng ngư dân lại không có tàu thuyền lớn để có thể đánh bắt xa bờ vì vậy việc khai thác ven bờ vẫn là chủ yếu. Bên cạnh đó, một nghịch lý nữa là nhiều địa phương ven biển đã khuyến khích đầu tư phát triển tàu đánh bắt xa bờ nhưng hoạt động lại không hiệu quả và đi đến phá sản không trả được nợ. Nguyên nhân chủ yếu là do để đánh bắt xa bờ thì phải có ngư trường, phải biết được luồng cá ở đâu và theo mùa nào để đánh bắt. Đây chính khó khăn lớn nhất đối với các chủ tàu mới đầu tư cho đánh bắt xa bờ vì ngư trường và luồng cá vẫn còn là bí quyết riêng của các thuyền trưởng và các ngư dân, không dễ gì để họ tiết lộ điều này.

- Nguồn lợi hải sản xa bờ lại chưa được đánh giá và dự báo chính xác.

- Vấn đề bảo tồn để khai thác hải sản một cách bền vững còn nhiều bất cập như còn sử dụng lưới có mắt lưới nhỏ hơn quy định, sử dụng chất nổ hay sung điện, đánh bắt trong mùa sinh sản,…

- Hoạt động quản lý, kiểm soát chưa được chú trọng, chưa đồng bộ và thiếu quyết liệt của các cấp ngành, chính quyền địa phương.

- Dịch vụ hậu cần, dịch vụ thu mua và chế biến hải sản còn tự phát, mô

hình nhỏ biển.

lẻ, thiếu tính đồng bộ

và chưa đáp

ứng được sản xuất trên


- Hỗ trợ khai thác còn nhiều bất cập, đặc biệt là vấn đề về công tác an

toàn cho người và tàu cá còn thiếu và yếu; hệ thống thông tin giám sát


trên biển chưa được đầu tư

kiện toàn; công tác dự

báo ngư

trường,

phòng chống bão và tìm kiếm cứu nạn chưa được quan tâm đúng mức.

3.2.4.5. Quản lý du lịch biển Việt Nam

a) Những thành tựu đạt được

Việt Nam là nước có đường bờ biển dài 3.260km với hơn 1 triệu km2 diện tích mặt nước biển, trên 2.773 đảo ven bờ và nhiều bãi cát đẹp trải dài từ Bắc tới Nam. Bên cạnh đó Việt Nam lại có thuận lợi là nước nhiệt đới gió mùa có nhiều nắng và gió, rất thuận lợi cho phát triển du lịch, đặc biển là du lịch biển.


Việt Nam đã có khoảng 125 bãi biển thuận lợi cho việc phát triển du

lịch. Trong đó, các khu vực biển có tiềm năng lớn là: Phía bắc có vịnh Hạ Long

- Hải Phòng - Cát Bà; Miền Trung có Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam, Vân Phong

- Đại Lãnh - Nha Trang; Phía Nam có Vũng Tàu - Long Hải - Côn Đảo, Hà Tiên

- Phú Quốc, Phan Thiết - Mũi Né.

Việt Nam có nhiều bãi biển đẹp được du khách thế giới biết đến như Hạ Long, Nha Trang, Đà Nẵng,… Đặc biệt là bãi biển Đà Nẵng, năm 2005, bãi

biển này đã được Tạp chí Forbes của Mỹ bình chọn là một trong 6 bãi biển

quyến rũ nhất hành tinh. Theo đó, bãi biển Đà Nẵng xếp ngang hàng với 5 bãi biển nổi tiếng trên thế giới là Hahia (TP Trancoso-Brazil), Bondi (TP Sydney- Úc), Castelo (Bồ Đồ Nha), Las Minitas (Dominica) và Wailea (Hawaii-Mỹ).

Không những thế, năm 2011, Vịnh Hạ Long của Việt Nam được bầu

chọn là một trong 7 kỳ quan thiên nhiên mới của thế New7Wonders phát động.

giới do tổ

chức


Khách quốc tế tới Việt Nam ngay càng nhiều và không ngừng tăng lên.

Năm 2005, Việt Nam đón 3.467.757 lượt khách quốc tế thì tới năm 2011, Việt Nam đã đón tiếp 6.014.031 lượt khách quốc tế (tăng thêm 73%, trung bình mỗi năm tăng 12%). Trong số lượt khách quốc tế tới Việt Nam thì số lượng lượt khách đến Việt Nam vì mục đích du lịch luôn chiếm một tỷ trọng lớn, chiếm trung bình 60% (trong giai đoạn 2005 - 2011).


Trong số khách quốc tế đến Việt Nam thì khách đến từ Trung Quốc

Xem tất cả 208 trang.

Ngày đăng: 04/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí