đổi hoàn toàn cách giáo viên dạy và học sinh học. Giáo viên đang học cách dạy với các công nghệ mới nổi (máy tính bảng, iPad, Bảng thông minh, máy ảnh kỹ thuật số, máy tính), trong khi học sinh đang sử dụng công nghệ tiên tiến để định hình cách học. Bằng cách nắm lấy và tích hợp công nghệ trong lớp học, có thể thiết lập cho học sinh một cuộc sống thành công bên ngoài trường học: Công nghệ trong lớp học giúp việc học trở nên thú vị hơn; Công nghệ thông tin giúp học sinh dễ dàng tương tác và kết nối với nhau… [28].
Có thể thấy rằng, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học đã được các tác giả nước ngoài quan tâm nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ nghiên cứu việc ứng dụng CNTT vào dạy học nói chung, chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu hiệu quả của việc ứng dụng thông tin trong dạy học ở tiểu học.
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Do ý nghĩa, tầm quan trọng của CNTT đối với phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước nên Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách hết sức quan trọng để đẩy mạnh việc ứng dụng, phát triển CNTT:
Chỉ thị số 58/CT-TW của Bộ Chính trị ngày 17/10/2000 về đẩy mạnh và ứng dụng CNTT phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH nêu rõ: "Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong công tác GD&ĐT ở các cấp học, bậc học, ngành học; phát triển các hình thức đào tạo từ xa phục vụ cho nhu cầu học tập của toàn xã hội. Đặc biệt tập trung phát triển mạng máy tính phục vụ cho giáo dục và đào tạo, kết nối Internet tới tất cả các cơ sở GD&ĐT" [7].
Việc nghiên cứu ứng dụng CNTT vào quản lí GD đặc biệt là trong quản lí nhà trường đã được một số luận văn thạc sĩ, công trình khoa học nghiên cứu đề cập đến, chẳng hạn như:
Tác giả Trần Kiểm, trong cuốn “Những vấn đề cơ bản của khoa học quản lý giáo dục” (2006) đã cũng cấp một số vấn đề cơ bản khoa học quản lý giáo dục trước xu thể phát triển hiện nay. Tác giả nhấn mạnh: Một trong bảy xu thế lớn của giáo dục thế giới trong thế kỷ XXI là: “Áp dụng rộng rãi CNTT- một hướng đổi mới giáo dục có hiệu quả”; vai trò của CNTT đã “Tác động của CNTT đối với lĩnh vực giáo dục đang tạo ra một cuộc cách mạng về giáo dục mở” [22].
Nhóm tác giả Bùi Minh Hiền, Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo trong cuốn: “Quản lý giáo dục” (2009) đã đề cập vấn đề QLGD cần ứng dụng công nghệ hiện đại để tăng hiệu quả quản lý, chỉ rõ một trong những phương tiện của công nghệ hiện đại là ứng dụng CNTT vào quản lý; đồng thời, các tác giả nhấn mạnh CNTT là công cụ của hệ thống thông tin, là “nền” của QLGD trong nhà trường. Công cụ CNTT sẽ là phương tiện để xử lý, chọn lọc thông tin cho hoạt động quản lý và quản lý đào tạo trong nhà trường [15].
Những công trình nghiên cứu và luận văn thạc sĩ trên đã đề cập đến việc ứng dụng CNTT vào trong quản lí ở nhà trường, khẳng định ý nghĩa tầm quan trọng của ứng dụng CNTT trong quản lí và các tác giả cùng đề xuất được một số biện pháp cần thiết, khả thi nâng cao hiệu quả ứng dụng CNTT trong quản lí. Tuy nhiên, việc nghiên cứu mới chỉ dừng ở trong phạm vi một số trường tiểu học nói chung. Đặc biệt, chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào đề cập đến việc ứng dụng CNTT trong dạy học ở các trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia tại một huyện miền núi như huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên. Vì thế, nghiên cứu đề tài này tác giả mong muốn đề xuất được những biện pháp nhằm tăng cường quản lí ứng dụng CNTT trong dạy học ở các trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục các trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học tại các trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia huyện điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên - 1
- Quản lý hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học tại các trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia huyện điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên - 2
- Hoạt Động Dạy Học Ở Trường Tiểu Học Đạt Chuẩn Quốc Gia
- Khả Năng Ứng Dụng Cntt Trong Dạy Học Ở Trường Tiểu Học Đạt Chuẩn Quốc Gia
- Tác Động Từ Nhận Thức, Thái Độ Của Cán Bộ Quản Lý, Giáo Viên Và Học Sinh Về Công Nghệ Thông Tin
Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.
1.2.1. Quản lý
1.1.2.1. Khái niệm
Đã có nhiều tác giả đưa ra khái niệm quản lý theo những cách tiếp cận với các góc độ khác nhau:
- Theo Frederick Winslow Taylor (1856 -1915) cho rằng: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất” (dẫn theo [5]). Đây cũng là tư tưởng cơ bản của ông về quản lý và ông đã đề xuất thuyết quản lý khoa học dựa trên các luận điểm về chuyên môn hoá lao động, xây dựng tiêu chuẩn định mức trong lao động để làm cơ sở cho tuyển chọn, huấn luyện, phân công lao động; thực hiện chế độ trả lương theo sản phẩm.
- Theo Henry Fayol (1841-1925), là cha đẻ của thuyết quản lý hành chính quan niệm rằng: “Quản lý hành chính là dự báo và lập kế hoạch, tổ chức và điều khiển,
phối hợp và kiểm tra” (dẫn theo [5]). Trong học thuyết quản lý của mình, ông đưa ra 5 chức năng cần thiết của một nhà quản lý:
1. Dự báo và lập kế hoạch.
2. Tổ chức thực hiện.
3. Điều khiển.
4. Phối hợp.
5. Kiểm tra.
- Theo Mary Parker Pollet (1868-1933) cho rằng: “Quản lý là nghệ thuật khiến cho công việc được thực hiện thông qua người khác”. Tư tưởng quản lý của Follet gồm một số điểm dựa trên việc giải quyết mối quan hệ con người không phải bằng áp chế, thỏa hiệp mà bằng sự thống nhất. Các tư tưởng của bà mở ra hướng tiếp cận và khai phá một số nội dung của thuyết quan hệ con người. Follet cho rằng, trong công việc quản lý, cần chú trọng tới những người lao động với toàn bộ đời sống của họ, bao gồm cả yếu tố kinh tế, tinh thần và tình cảm. Con người luôn gắn liền với nhau trong một tổ chức nhất định mà sự hòa hợp, thống nhất giữa họ sẽ tạo ra nền tảng của các tổ chức và trở thành động lực cho tổ chức phát triển và đó cũng là thực chất của quản lý (dẫn theo [5]).
- Theo Harold Koontz, được coi là cha đẻ của lý luận quản lý hiện đại, đã viết: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu; nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của mọi tập thể là phải đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất” (dẫn theo [15]).
Phạm Minh Hạc: “QL là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể người QL đến tập thể người lao động nói chung (khách thể QL) nhằm thực hiện mục tiêu dự kiến” [14].
Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ cho rằng: “QL là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, QL một hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định” [18].
Trần Kiểm: “QL là những tác động của chủ thể QL trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất” [23].
Nguyễn Thị Mỹ Lộc - Nguyễn Quốc Chí: “QL là sự tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể QL (người QL) đến khách thể QL (người bị QL) - trong tổ chức
- nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [6].
Các quan niệm trên đây, tuy khác nhau, song các tác giả đã có cách hiểu chung về một số nội dung của QL là:
- Hoạt động QL bao giờ cũng là QL con người được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội.
- QL là những tác động có tính hướng đích.
- QL là những tác động phối hợp nỗ lực của các cá nhân nhằm đạt mục tiêu của tổ chức. Đây là thể hiện mối quan hệ của chủ thể QL và đối tượng QL.
- QL theo tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin là hoạt động mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp với những quy luật khách quan và hoạt động tự giác của con người.
- QL là một hoạt động mang tính tất yếu của xã hội. Chủ thể QL và khách thể QL luôn có tác động qua lại và chịu tác động của môi trường. QL vừa là khoa học, vừa là một nghệ thuật. Vì vậy, người QL ngoài những yêu cầu về trình độ, năng lực, phẩm chất còn phải nhạy cảm, linh hoạt trong công tác lãnh đạo của mình.
Từ những quan niệm trên có thể hiểu: Quản lý là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của nhà quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đặt ra.
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau, song đều nhấn mạnh đến sự tác động, phối hợp các thành viên trong tổ chức trong thực hiện các công việc chung để đạt được mục tiêu đã định. Trong luận văn này, tác giả sử dụng khái niệm quản lý theo nghĩa hiểu là quá trình người cán bộ quản lý lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc của các thành viên thuộc một hệ thống đơn vị và việc sử dụng các nguồn lực phù hợp để đạt được các mục đích đã đề ra.
1.2.2. Chức năng của quản lý
1.2.1.1. Chức năng kế hoạch hóa
Kế hoạch hóa là hoạch định các công việc cần thực hiện một cách chủ động và khoa học. Kế hoạch hóa là chức năng đầu tiên, giúp trù liệu cho việc thực hiện đạt kết quả tốt. Kế hoạch hoá là chức năng quan trọng nhất của việc lãnh đạo, soạn thảo và
thông qua những quyết định quản lý quan trọng nhất. Kế hoạch hoá bao gồm việc xây dựng mục tiêu, chương trình hành động, xác định từng bước đi, những điều kiện, phương tiện cần thiết trong một thời gian nhất định của hệ thống quản lý và bị quản lý trong nhà trường. Tùy theo cách tiếp cận mà ta có thể phân loại kế hoạch GD:
- Dựa vào yếu tố thời gian: có kế hoạch dài hạn, kế hoạch trung hạn, kế hoạch ngắn hạn.
- Quy mô quản lí: kế hoạch tổng thể, kế hoạch bộ phận.
- Nguồn lực GD: kế hoạch xây dựng đội ngũ, kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất, kế hoạch quản lí tài chính…
- Hoạt động giáo dục: kế hoạch dạy học, kế hoạch ngoại khóa, kế hoạch bồi dưỡng GV.
Lập kế hoạch là thiết kế các bước đi cho hoạt động tương lai để đạt được những mục tiêu đã xác định thông qua việc sử dụng tối ưu nhưng nguồn lực đã có và sẽ khai thác. Lập kế hoạch có hai cấp: cấp vĩ mô và cấp vi mô. Tuy nhiên, sự phân định kế hoạch vĩ mô hay vi mô tùy theo điều kiện, hoàn cảnh và theo thời gian cụ thể.
Việc lập kế hoạch tốt sẽ giúp nhà quản lý giáo dục có kế hoạch khả năng ứng phó với sự bất định và sự thay đổi và cho phép nhà quản lý tập trung chú ý vào các mục tiêu và tìm cách tốt nhất, tiết kiệm nguồn lực, tạo hiệu quả hoạt động cho toàn bộ tổ chức để đạt được mục tiêu và giúp nhà quản lý dễ dàng kiểm tra trong quá trình thực hiện.
1.2.1.2. Chức năng tổ chức
Chức năng tổ chức của quản lý là thiết kế cơ cấu, phương thức và quyền hạn hoạt động của các bộ phận (cơ quan) quản lý sao cho phù hợp với mục tiêu của tổ chức. Đây là chức năng phát huy vai trò, nhiệm vụ, sự vận hành và sức mạnh của tổ chức thực hiện hiệu quả nhiệm vụ của quản lý. Có thể nói tổ chức là một công cụ.
Một tổ chức phải có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng như quy chế, quy định, nội quy… và coi đây là điều kiện để tổ chức hoạt động có hiệu quả. Tổ chức giáo dục phải có sự bình đẳng trong quan hệ.
Một tổ chức tốt phải được xây dựng trên các nguyên tắc sau:
- Xác định cơ cấu của tổ chức phải gắn với mục đích, mục tiêu của hệ thống, phải gắn với nội dung công việc cụ thể. Vì cơ cấu tổ chức là công cụ để thực hiện mục tiêu của hệ thống.
- Việc xây dựng cơ cấu tổ chức phải bảo đảm nguyên tắc chuyên môn hóa, cân đối và dựa vào nhiệm vụ cụ thể. Con người trong cơ cấu tổ chức phải được sắp xếp phù hợp với chuyên ngành đào tạo. Phải cụ thể hóa nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của từng bộ phận, từng cá nhân.
- Xây dựng tiêu chuẩn hóa trong tổ chức giúp cho nhà quản lý và các thành viên đánh giá và tự đánh giá công việc của mình.
- Cơ cấu tổ chức của một hệ thống còn liên quan đến tầm quản lí. Tầm quản lí là giới hạn quản lí mà người quản lí có thể giám sát có hiệu quả.
Sự phát triển của quản lý đã dẫn đến việc hình thành các kiểu cơ cấu tổ chức quản lí kế hoạch khác nhau. Đó là: Kiểu cơ cấu tổ chức trực tuyến, kiểu chức năng, kiểu cơ cấu trực tuyến-chức năng; kiểu tổ chức chính thức và không chính thức; kiểu ma trận. Mỗi kiểu đều có ưu điểm, nhược điểm riêng. Tùy theo điều kiện cụ thể, có thể lựa chọn cho phù hợp để vận hành có hiệu quả.
1.2.1.3. Chức năng điều khiển chỉ đạo thực hiện
Đây là chức năng thể hiện năng lực của người quản lí. Sau khi hoạch định kế hoạch và sắp xếp tổ chức, người cán bộ quản lý phải điều khiển, chỉ đạo cho hệ thống hoạt động theo đúng kế hoạch nhằm thực hiện mục tiêu đã đề ra. Người điều khiển hệ thống phải là người có tri thức, có kĩ năng ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định.
Quyết định là công cụ chính để điều khiển hệ thống. Ra quyết định là quá trình xác định vấn đề và lựa chọn một phương án tối ưu trong số những phương án khác. Việc ra quyết định quyết định xuyên suốt trong quá trình quản lí, từ việc lập kế hoạch, xây dựng tổ chức cho đến việc kiểm tra đánh giá.
1.2.1.4. Chức năng kiểm tra
Chức năng kiểm tra là chức năng cố hữu của quản lý. Không có kiểm tra sẽ không có quản lý. Kiểm tra là chức năng xuyên suốt trong quá trình quản lý và là chức năng của mọi cấp quản lý. Kiểm tra là hoạt động nhằm thẩm định, xác định một hành vi của cá nhân hay một tổ chức trong quá trình thực hiện quyết định.
Kiểm tra là một quá trình thường xuyên để phát hiện sai phạm, uốn nắn, giáo dục và ngăn chặn, xử lí. Mục đích của kiểm tra là xem xét hoạt động của cá nhân và
tập thể có phù hợp với nhiệm vụ hay không và tìm ra ưu, nhược điểm, nguyên nhân. Qua kiểm tra người quản lí cũng thấy được sự phù hợp giữa thực tế, nguồn lực và thời gian, phát hiện những nhân tố mới, những vấn đề đặt ra.
1.3. Hoạt động dạy học ở trường tiểu học
1.3.1. Vị trí, vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường tiểu học
Điều lệ trường TH (theo thông tư số 41/2010/TT-BGDĐT ngày 30/12/2010 của Bộ trưởng Bộ GD và ĐT về ban hành Điều lệ trường TH cho rằng “Trường TH là cơ sở GD phổ thông của hệ thống GD quốc dân, có tư cách pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng” [3].
Trường TH là cơ sở GD của bậc TH, bậc học nền tảng của hệ thống GD quốc dân. Đây là bậc học bắt buộc đối với mọi trẻ em từ 6 tuổi đến 14 tuổi thực hiện trong 5 năm học từ lớp 1 đến lớp 5. Bậc học này nhằm giúp HS hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn, lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các chức năng cơ bản để HS tiếp tục học THCS. Trường TH lần đầu tiên tác động đến các em bằng PP nhà trường (bao gồm cả nội dung, PP và tổ chức GD); nơi đầu tiên tổ chức một cách tự giác hoạt động học tập với tư cách là một hoạt động chủ đạo cho trẻ em; nơi diễn ra cuộc sống thực của trẻ em và là nơi tạo ra cho trẻ em có nhiều hạnh phúc.
TH là cấp học đầu tiên của hệ thống GD phổ thông. Do đó, nội dung GD phải đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, nền tảng, toàn diện và hệ thống; làm cơ sở cho sự phát triển hài hòa, toàn diện nhân cách của trẻ em, đáp ứng mục tiêu GD TH.
GD TH có tính nhân văn, dân tộc và hiện đại. Trước hết, HS học xong TH sẽ có trình độ văn hóa nói chung, trình độ GD phổ cập cấp TH để học tiếp cấp THCS. Trường TH là nơi đầu tiên dạy trẻ em biết yêu gia đình, quê hương, đất nước và con người, biết đọc, biết viết, biết làm tính, biết tìm hiểu tự nhiên, xã hội và con người. Chính vì vậy, trường TH có rất nhiều dấu ấn để lại trong suốt cuộc đời của mỗi con người.
1.3.2. Hoạt động dạy học ở trường tiểu học
a. Hoạt động dạy học
Hoạt động dạy học là hoạt động trung tâm trong bất cứ loại hình nhà trường nào, dưới góc độ giáo dục học. Dạy học là một quá trình toàn vẹn có sự thống nhất, biện chứng giữa hai mặt của các chức năng hoạt động dạy và hoạt động học. Trong
đó dưới sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển của giáo viên, người học tự giác, tích cực tổ chức, tự điều khiển hoạt động học tập của mình nhằm thực hiện nhiệm vụ dạy học. Trong hoạt động dạy học, hoạt động của giáo viên giữ vai trò chủ đạo, hoạt động học của người học có vai tò chủ động, tích cực. Hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học viên có liên hệ tác động lẫn nhau. Nếu thiếu một trong hai hoạt động thì việc dạy học không diễn ra.
Theo tác giả Trần Thị Tuyết Oanh: “Hoạt động dạy học là hoạt động chuyên biệt của người giáo viên nhằm tổ chức, điều khiển, triển khai, điều chỉnh quá trình lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng và kỹ xảo trong hoạt động học tập của học sinh từ đó giúp các em không chỉ lĩnh hội mà còn biết cách lĩnh hội tri thức (dạy cái và dạy cách) tạo ra sự phát triển tâm lý, hình thành nhân cách” [25].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Bảo: “Hoạt động dạy học là hoạt động dưới sự lãnh đạo, tổ chức điều khiển của người giáo viên, người học tự giác, tích cực, chủ động tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức-học tập của mình nhằm thực hiện những nhiệm vụ dạy học” [1].
Như vậy, chúng ta thấy: sự điều khiển tối ưu hoá quá trình học sinh chiếm lĩnh khái niệm khoa học và bằng cách đó phát triển và hình thành nhân cách. Dạy và học có những mục đích khác nhau, nếu học nhằm vào việc chiếm lĩnh tri thức khoa học thì dạy có mục đích điều khiển sự học tập.
Từ khái niệm hoạt động dạy học nêu ở trên, có thể hiểu:
Hoạt động dạy học là hoạt động được thực hiện theo một chiến lược, chương trình đã được người giáo viên thiết kế, tác động đến người học nhằm hướng tới mục tiêu hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của người học.
b. Hoạt động dạy học ở trường tiểu học
Trường tiểu học: Là một cơ sở giáo dục của cấp tiểu học, là cấp học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Trường tiểu học có các lớp từ lớp 1 đến lớp 5 và có tư cách pháp nhân và con dấu riêng.
Hoạt động dạy học ở trường tiểu học giữ vị trí trung tâm bởi nó chiếm hầu hết thời gian, khối lượng công việc của thầy và trò trong một năm học; nó làm nền tảng quan trọng để thực hiện thành công mục tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường, đồng thời nó cũng quyết định kết quả đào tạo của nhà trường.