Dạy Học Môn Ngữ Văn Ở Trường Thpt Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực Hs

cũng chỉ ra mối quan hệ giữa năng lực và tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. Theo ông: tri thức, kĩ năng, kĩ xảo là chất liệu để tạo thành năng lực tương ứng. Không có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo thì không có năng lực, tuy chúng không đồng nhất với nhau [23].

Tác giả Nguyễn Văn Cường và Bernd Meier trong cuốn “Lý luận dạy học hiện đại, cơ sở đổi mới mục tiêu, nội dung và PPDH” (2016) [3] đã cho rằng PTNL như là mục tiêu dạy học, GD định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc DH, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. GD định hướng năng lực nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức.

Tác giả Lê Đình Trung, Phạm Thị Thanh Hội trong cuốn “Dạy học định hướng hình thành và PTNL người học ở trường phổ thông” (2016) [47] đã khái quát được một số vấn đề chung về hình thành và PTNL người học ở trường phổ thông, định hướng việc tổ chức dạy học theo định hướng PTNL ở trường THPT và kiểm tra định hướng hình thành và PTNL người học.

Trong cuốn Tạp chí Quản lý GD, số đặc biệt tháng 4/2015, Hội thảo quốc tế phát triển năng lực người học trong bối cảnh hiện nay có nhiều bài viết liên quan đến dạy học PTNL như: Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc với bài viết “dạy học PTNL”; tác giả Đặng Tự Ân với bài viết “GD định hướng PTNL”; tác giả Lê Xuân Trường với bài viết “Giải pháp đổi mới PPDH nhằm PTNL HS trung học”.

Ngoài ra, còn một số luận văn, luận án nghiên cứu vấn đề quản lý quá trình sư phạm, dạy học, quản lý HĐDH đã được bảo vệ.

Luận văn chuyên ngành Quản lý giáo dục “Biện pháp quản lý hoạt động dạy học theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học viên tại trung tâm hướng nghiệp và giáo dục thường xuyên tỉnh Quảng Ninh” của tác giả Trần Văn Sọi, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, năm 2010.

Luận văn chuyên ngành Quản lý giáo dục “Quản lý hoạt động quản hoạt động dạy học ở trường trung học phổ thông Phan Đình Giót – Thành phố Điện Biên Phủ theo hướng tiếp cận phát triển năng lực” của tác giá Phạm Thị Hà, Trường Đại học Giáo dục – Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 2015.

Luận văn chuyên ngành Quản lý giáo dục “Quản lý hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực HS các trường THPT huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam” của tác giả Bùi Đức Thiện, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 2016.

Tóm lại, đã có khá nhiều tác giả nghiên cứu về HĐDH, quản lý HĐDH theo định hướng PTNL. Tuy nhiên, đối với trường THPT Hòn Gai - Thành phố Hạ Long cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề quản lý HĐDH theo định hướng PTNL HS và quản lí HĐDH môn Ngữ văn theo định hướng PTNL HS. Luận văn này sẽ kế thừa, tiếp thu một cách chọn lọc các công trình nghiên cứu có liên quan về công tác này, để tập trung nghiên cứu sâu vấn đề quản lí HĐDH môn Ngữ văn

theo định hướng PTNL HS, góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở trường THPT đáp ứng mục tiêu GD - đào tạo trong giai đoạn hiện nay.

1.2. Dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT theo định hướng phát triển năng lực HS

1.2.1. Năng lực và phát triển năng lực HS THPT

1.2.1.1. Năng lực

* Khái niệm

Thuật ngữ năng lực có nguồn gốc tiếng Latinh là “competentia”, có nghĩa là gặp gỡ. Trong tiếng Anh, "năng lực" có thể được dùng với những thuật ngữ như capability, ability, competency, capacity... Capability: Khả năng mà cá nhân thể hiện khi tham gia một hoạt động nhất định; Competency - Năng lực hành động: Khả năng thực hiện hiệu quả các hành động, các vấn đề liên quan đến một lĩnh vực nhất vực nhất định dựa trên cơ sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và sự sẵn sàng hành động; Attribute: Phẩm chất cá nhân (quality of person): cá tính hay nhân cách.

Khái niệm năng lực được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, có thể hiểu và khái quát: Năng lực là tổng hợp những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định, nhằm đảm bảo việc hoàn thành có kết quả tốt trong lĩnh vực hoạt động ấy. Năng lực được hiểu là kĩ năng biết làm thành thạo và có hiệu quả, mà không chỉ có biết và hiểu của một cá nhân [47].

* Cấu trúc năng lực:

Theo quan điểm của các nhà sư phạm nghề Đức, cấu trúc chung của năng lực hành động được mô tả là sự kết hợp của 4 năng lực thành phần sau:

Sơ đồ 1 1 Các thành phần cấu trúc của năng lực Năng lực chuyên môn 1

Sơ đồ 1.1. Các thành phần cấu trúc của năng lực


+ Năng lực chuyên môn (Professional competency): Là khả năng thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn cũng như khả năng đánh giá kết quả chuyên môn một cách độc lập, có PP chính xác về mặt chuyên môn. Trong đó bao gồm cả khả năng tư duy

lôgic, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khả năng nhận biết các mối quan hệ hệ thống và quá trình.

+ Năng lực PP (Methodical competency): Là khả năng đối với những hành động có kế hoạch, định hướng mục đích trong việc giải quyết các nhiệm vụ và vấn đề. Năng lực PP bao gồm năng lực PP chung và PP chuyên môn.

+ Năng lực xã hội (Social competency): Là khả năng đạt được mục đích trong những tình huống xã hội xã hội cũng như trong những nhiệm vụ khác nhau trong sự phối hợp sự phối hợp chặt chẽ với những thành viên khác.

+ Năng lực cá thể (Induvidual competency): Là khả năng xác định, đánh giá được những cơ hội phát triển cũng như những giới hạn của cá nhân, phát triển năng khiếu cá nhân, xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển cá nhân, những quan điểm, chuẩn giá trị đạo đức và động cơ chi phối các ứng xử và hành vi.

Từ cấu trúc của khái niệm năng lực cho thấy GD định hướng PTNL không chỉ nhằm mục tiêu PTNL chuyên môn bao gồm tri thức, kĩ năng chuyên môn mà còn PTNL PP, năng lực xã hội và năng lực cá thể. Những năng lực này không tách rời nhau mà có mối quan hệ chặt chẽ. Năng lực hành động được hình thành trên cơ sở có sự kết hợp các năng lực này.

- Năng lực GD:

TS. Đặng Thành Hưng cho rằng: "năng lực GD được hiểu một cách toàn diện, đó là sự huy động và kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức các kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân HS… để thực hiện thành công các yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh cụ thể trong trường học hay ngoài cuộc sống" (dẫn theo [29]).

Trong GD, năng lực là thuộc tính cho phép cá nhân thực hiện thành công hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể. Về năng lực của người học, đó là sự kết hợp lý thuyết, kĩ năng và sự sẵn sàng tham gia để cá nhân hành động có trách nhiệm và biết phê phán tích cực hướng tới giải pháp cho các vấn đề. Năng lực có thể hiểu như là khả năng hành động hiệu quả bằng sự cố gắng dựa trên nhiều nguồn lực. Những khả năng này được sử dụng một cách phù hợp, bao gồm tất cả những gì đã học được từ nhà trường cũng như kinh nghiệm cá nhân; những kĩ năng, thái độ và sự hứng thú; ngoài ra còn có những nguồn lực bên ngoài.

- Phân loại năng lực trong GD:

Năng lực được phân thành 02 nhóm chính: năng lực chung và năng lực riêng (hay được gọi là năng lực chuyên biệt).

Năng lực chung là năng lực trong một phạm vi rộng, tạo tiền đề và là cơ sở cần thiết trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau, như: khả năng hành động độc lập thành công; khả năng sử dụng các công cụ giao tiếp và công cụ tri thức một cách tự

chủ; khả năng hành động thành công trong các nhóm xã hội không đồng nhất. Năng lực chung trong lĩnh vực GD được hình thành và phát triển qua nhiều môn học.

1.2.1.2. Phát triển năng lực HS THPT

a. Đặc điểm HS THPT

HS THPT là lứa tuổi trong khoảng từ 15 đến 18 tuổi; các em học tập chương trình từ lớp 10 đến lớp 12. Ở lứa tuổi này các em đang trưởng thành và dần hoàn thiện: phát triển chiều cao, cân nặng, sức vóc tăng dần; về tâm sinh lí cũng dần chuyển sang những nét tâm sinh lý của người lớn, các em ý thức được bản thân mình nhiều hơn, nhu cầu tự khẳng định cá nhân ngày càng cao.

Hoạt động học tập của các em đang dần dần được nâng cao cả về lượng kiến thức và PP học tập. Tự bản thân các em đã nhận thức được đầy đủ và khá sâu sắc nhiệm vụ học tập của mình. Ở lứa tuổi này thái độ và động cơ học tập của các em rõ ràng hơn trước rất nhiều. Hầu hết các em xác định được mục đích học tập và cách học để đạt kết quả cao nhất. Tuy nhiên ở các em vẫn còn nét tính cách của tuổi mới lớn, vẫn cần có sự giám sát, đôn đốc của người lớn mới đạt được kết quả như mong muốn.

Hoạt động học tập của HS THPT đòi hỏi cao về tính năng động, độc lập, gắn liền với xu hướng học lên. Đồng thời cũng đòi hỏi muốn nắm được CT học một cách sâu sắc thì cần phải phát triển tư duy lý luận, khả năng trừu tượng. Các em ý thức được vị trí, vai trò của mình. Do vậy, thái độ có ý thức của các em trong hoạt động học tập ngày càng được phát triển. Các em có ý thức chọn lựa các môn học, tính phân hóa trong hoạt động học tập thể hiện rõ hơn, cao hơn, do xu hướng lựa chọn nghề chi phối. Ở các em đã hình thành những hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp. Cuối bậc THPT các em đã xác định được cho mình một hứng thú ổn định đối với một môn học nào đó, hoặc một tri thức nhất định. Hứng thú này thường liên quan đến việc chọn một nghề nhất định của HS. Hơn nữa, hứng thú của HS THPT mang tính chất rộng rãi, sâu và bền vững. Tuy vậy, nhược điểm là một mặt, các em rất tích cực học một số môn mà các em cho là quan trọng đối với nghề mình đã chọn, mặt khác các em lại xao nhãng các môn học khác hoặc chỉ học để đạt được điểm trung bình. Do đó, GV cần giúp các em hiểu được ý nghĩa và chức năng GD cơ bản, toàn diện, tạo nền tảng vững chắc hình thành nhân sinh quan, thế giới quan khoa học của con người cho các em trong bậc học phổ thông.

b. Khái niệm về phát triển năng lực HS

Dạy học theo PTNL chính là chú ý nhiều đến việc hình thành năng lực cho người học thông qua việc tổ chức hướng dẫn học tập của GV như cung cấp phần kiến thức được lựa chọn phù hợp với đối tượng người học, rèn kỹ năng từ đó hình thành năng lực cho người học, và năng lực sẽ hỗ trợ lại khả năng tiếp thu kiến thức, phát triển kỹ năng và năng lực.

Phát triển năng lực là trang bị cho HS kiến thức, kỹ năng căn bản từ đó hình thành năng lực hành động, HS sẽ chú ý đến việc làm và ít chú ý đến tri thức; dựa trên tri thức cơ bản phát triển kỹ năng, hình thành năng lực.

Để hình thành năng lực cho người học chúng ta phải lựa chọn nội dung, kiến thức cơ bản để giảm nội dung phải truyền tải; hình thành năng lực là không cần nhồi nhét kiến thức, như vậy GV phải có cách dạy và yêu cầu HS biết vận dụng kiến thức vào giải quyết vấn đề, các tình huống trong đời sống.

c. Chuẩn đầu ra HS THPT

Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28-11-2014 của Quốc hội quy định: GD phổ thông 12 năm, gồm hai giai đoạn GD: Giai đoạn GD cơ bản (gồm cấp tiểu học 5 năm và cấp THCS bốn năm); giai đoạn GD định hướng nghề nghiệp (cấp THPT ba năm). Theo Dự thảo chương trình GD phổ thông tổng thể, ở cấp THPT - giai đoạn GD định hướng nghề nghiệp, mục tiêu cần đạt là bảo đảm cho HS tiếp cận nghề nghiệp, chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng đồng thời, tiếp tục phát triển những phẩm chất, năng lực cần thiết đối với người lao động, ý thức và nhân cách công dân; khả năng tự học và ý thức học tập suốt đời; khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực và sở thích, điều kiện và hoàn cảnh của bản thân để tiếp tục học lên, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động; khả năng thích ứng với những đổi thay trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới. Cụ thể là cần có được những phẩm chất và năng lực chủ yếu sau:

Về phẩm chất: yêu đất nước, yêu con người, chăm học, chăm làm, trung thực, trách nhiệm.

Về năng lực cốt lõi bao gồm: những năng lực chung mà tất cả các môn học phải phát triển như năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; những năng lực chuyên môn được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học nhất định như năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất.

Bên cạnh việc hình thành, phát triển các năng lực cốt lõi, CTGD phổ thông còn góp phần phát hiện, bồi dưỡng năng lực đặc biệt (năng khiếu) của HS.

d. Hệ thống năng lực cần phát triển cho HS THPT

* Năng lực chung:

Là năng lực cơ bản, thiết yếu để con người có thể sống và làm việc bình thường trong xã hội; được hình thành và phát triển do nhiều môn học, liên quan đến nhiều môn học. Chương trình dạy học hiện đại được xây dựng theo hai trục chính: tích hợp và phân hóa nhằm hướng tới hình thành và phát triển 3 phẩm chất (sống yêu thương, sống trách nhiệm, sống trung thực) và 8 năng lực cốt lõi (Phụ lục 4)

Từ các phẩm chất và năng lực chung, mỗi môn học xác định những phẩm chất, và năng lực cá biệt và những yêu cầu đặt ra cho từng môn học, từng hoạt động GD.

* Năng lực chuyên biệt:

Là những năng lực được hình thành và phát triển trên cơ sở các năng lực chung theo định hướng chuyên sâu, riêng biệt trong các loại hình hoạt động, công việc hoặc tình huống, môi trường đặc thù, cần thiết cho những hoạt động chuyên biệt, đáp ứng yêu cầu hạn hẹp hơn của một hoạt động như Ngữ văn, Toán học, Âm nhạc, Mĩ thuật, Lịch sử….


Cách tiếp cận truyền thống

Cách tiếp cận theo phát triển năng

lực người học

Mục tiêu GD

Mục tiêu dạy học được mô tả không chi tiết và không nhất thiết phải quan sát, đánh giá được.

Kết quả học tập cần đạt được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được; thể hiện được mức độ tiến bộ của HS

một cách liên tục.

Nội dung GD

Việc lựa chọn nội dung dựa vào các khoa học chuyên môn, không gắn với các tình huống thực tiễn. Nội dung được quy định chi tiết

trong chương trình.

Lựa chọn những nội dung nhằm đạt được kết quả đầu ra đã quy định, gắn với các tình huống thực tiễn. Chương trình chỉ quy định những nội dung

chính, không quy định chi tiết.

PP dạy học

GV là người truyền thụ tri thức, là trung tâm của QTDH. HS tiếp thu thụ động những tri thức được quy định sẵn.

GV chủ yếu là người tổ chức, hỗ trợ HS tự lực và tích cực lĩnh hội tri thức. Chú trọng sự phát triển khả năng giải quyết vấn đề, khả năng giáo tiếp,…;

Chú trọng sử dụng các quan điểm, PP và

kỹ thuật dạy học tích cực, các PP dạy học thí nghiệm, thực hành.

Hình thức dạy học

Chủ yếu dạy học lý thuyết trên lớp học

Tổ chức hình thức học tập đa dạng; chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học, trải nghiệm sáng tạo; đẩy mạnh ứng dụng CNTT và truyền thông

trong dạy và học.

Đánh giá kết quả học tập của HS

Tiêu chí đánh giá được xây dựng chủ yếu dựa trên sự ghi nhớ và tái hiện nội dung đã học.

Tiêu chí đánh giá dựa vào năng lực đầu ra, có tính đến sự tiến bộ trong quá trình học tập, chú trọng khả năng vận dụng

trong các tình huống thực tiễn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 159 trang tài liệu này.

Bảng 1.1. So sánh một số đặc trưng cơ bản của dạy học theo cách tiếp cận truyền thống và theo tiếp cận phát triển năng lực người học‌


(Theo tài liệu tập huấn về đổi mới PPDH, KTĐG theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất HS)

1.2.2. Môn ngữ văn ở trường THPT

1.2.2.1. Nội dung môn ngữ văn ở trường THPT

Nội dung môn Ngữ văn trong trường THPT được tập hợp thành ba bộ phận chủ yếu là: Văn; Tiếng Việt; Làm văn. Các nội dung có quan hệ qua lại với nhau theo một hệ thống cấu trúc nội dung CT, đảm bảo tính khoa học và thực tiễn, quy định bằng các văn bản, SGK, chuẩn kiến thức kỹ năng do Bộ GD&ĐT ban hành.

- Phân môn Văn bao gồm các nội dung về văn bản: Văn học sử, văn bản văn học, văn bản nhật dụng; lý luận văn học.

- Phân môn Tiếng Việt bao gồm các nội dung về lịch sử Tiếng Việt, đặc điểm loại hình tiếng Việt, yêu cầu sử dụng Tiếng Việt, hoạt động giao tiếp, về ngôn ngữ, phong cách ngôn ngữ, biện pháp tu từ, ngữ cảnh, nghĩa của câu, luật thơ, hàm ý.

- Phân môn làm văn các nội dung về những vấn đề chung về văn bản và tạo lập văn bản, các kiểu bài làm văn và các kĩ năng làm văn với các kiểu bài.

1.2.2.2. Chương trình môn Ngữ văn trong trường THPT

Chương trình môn Ngữ văn THPT hiện nay được thực hiện căn cứ vào Chương trình GD phổ thông cấp THPT, ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGD-Đ, ngày 05 tháng 05 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ GD và Đào tạo và Công văn số 7608 /BGDĐT-GDTrH, ngày 31 tháng 8 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT “Về việc quy định Khung phân phối chương trình THCS, THPT năm học 2009-2010”; Công văn số 5682/ BGDĐT-VP, ngày 01tháng 9 năm 2011 của Bộ GD và đào tạo “Về việc hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học GD phổ thông”.

Chương trình Ngữ văn THPT vẫn thực hiện trong 37 tuần, một số nội dung chi tiết trong chương trình có sự điều chỉnh theo chuẩn kiến thức kĩ năng để phù hợp với giảm tải nội dung chương trình theo sự chỉ đạo của Bộ GD&ĐT

Bảng 1.2. Biên chế chương trình Ngữ văn THPT

Phân môn

Lớp 10/tiết

Lớp 11/tiết

Lớp12/tiết

Văn

58

73

60

Tiếng Việt

12

13

12

Làm văn

35

37

33

Tổng số tiết/năm

105

123

105

1.2.2.3. Đặc điểm môn Ngữ văn THPT

Ở bậc học THPT - Giai đoạn GD định hướng nghề nghiệp, chương trình môn Ngữ văn nhằm củng cố và phát triển các kết quả của giai đoạn GD cơ bản, giúp HS nâng cao năng lực giao tiếp, năng lực tiếp nhận; tăng cường năng lực tạo lập văn bản nghị luận, văn bản thông tin có độ phức tạp hơn về chủ đề và kĩ thuật viết, qua đó phát triển tư duy độc lập, sáng tạo và khả năng lập luận; đồng thời giúp HS học sâu hơn về tác phẩm văn học, trang bị một số kiến thức lịch sử văn học, lí luận văn học có tác dụng thiết thực đối với việc đọc và viết về văn học.

Ngữ văn là môn học thuộc lĩnh vực GD ngôn ngữ và văn học. Thông qua các văn bản ngôn từ và những hình tượng nghệ thuật sinh động trong các tác phẩm văn

học, bằng hoạt động đọc, viết, nói và nghe, môn Ngữ văn có vai trò to lớn trong việc giúp HS phát triển những phẩm chất cao đẹp; có những cảm xúc lành mạnh, biết tôn trọng cái đẹp; có đời sống tinh thần phong phú; có tâm hồn nhân hậu và lối sống nhân ái, vị tha. Là một môn học vừa có tính công cụ, vừa có tính thẩm mĩ - nhân văn, môn Ngữ văn giúp HS hình thành, phát triển các năng lực chung và năng lực môn học như năng lực ngôn ngữ, năng lực thẩm mĩ để học tập tốt các môn học khác, để sống và làm việc hiệu quả, để học suốt đời. Nội dung CT môn Ngữ văn liên quan tới nhiều môn học và HĐDH khác như Lịch sử, Địa lí, GD công dân, Ngoại ngữ, …

Môn Ngữ văn ở trường phổ thông phát triển các năng lực và phẩm chất trên thông qua các HĐDH, xoay quanh bốn lĩnh vực giao tiếp cơ bản: đọc, viết, nói và nghe. Các kiến thức lí thuyết về tiếng Việt, lịch sử văn học, lí luận văn học và làm văn chủ yếu được dùng như là phương tiện tiến hành các HĐDH đó.

Xét về bản chất, môn Văn là môn học nghệ thuật, là môn học về cái đẹp, nhằm bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ cho HS. Nhưng cái đẹp trong văn học không dễ gì tìm thấy ngay, và càng khó hơn khi phải dẫn dắt HS tìm đến, khám phá để cảm nhận được cái đẹp và chiếm lĩnh nó. Người GV ngữ văn vừa phải có năng lực phát hiện ấy, vừa phải biết truyền cái năng lực ấy đến cho HS. Đây chính là việc hình thành năng lực thẩm mỹ, năng lực khám phá cái đẹp trong văn học. Như vậy, khi dạy văn học cùng một lúc, sẽ đạt được kết quả kép: vừa đem đến cho HS cái đẹp trong tác phẩm văn chương, lại bồi dưỡng được năng lực thẩm mỹ cho các em - vốn là một năng lực cần thiết cho con người hiện đại ngày nay. Và từ việc cảm nhận cái đẹp mà các em sẽ tự hình thành những tình cảm tốt đẹp khác một cách tự nhiên như yêu con người, yêu cuộc sống, yêu nước, yêu các giá trị mà con người đã tạo ra. Cái đẹp của văn chương đã trở thành cái đẹp của con người và cuộc sống.

Môn Văn là môn công cụ, là môn học mang ý nghĩa thực hành, mà ở đây chính là cách đọc hiểu văn bản, cách tạo lập văn bản, cách diễn đạt sao cho đúng, cho hay. Nó phải trở thành mẫu mực, phải nâng lên mức kỹ năng thuần thục để có thể hỗ trợ cho các môn khác.

1.2.3. Dạy học môn Ngữ văn theo định hướng PTNL HS ở trường THPT

1.2.3.1. Khái niệm dạy học môn Ngữ văn theo định hướng PTNL HS ở trường THPT

Dạy học theo định hướng PTNL người học là nhằm mục tiêu PTNL cho người học phát triển toàn diện phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng kiến thức vào tình huống thực tiễn, chuẩn bị cho người học năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, người học có vai trò là chủ thể của quá trình nhận thức [36].

Như vậy, từ định nghĩa trên cho thấy, "dạy học môn Ngữ văn theo định hướng PTNL HS ở trường THPT là việc tổ chức HĐDH môn Ngữ văn nhằm hình thành, tăng cường và nâng cao hệ thống năng lực, phẩm chất của HS, giúp HS

Xem tất cả 159 trang.

Ngày đăng: 20/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí