8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và khuyến nghị, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung luận văn được cấu trúc trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động đánh giá giáo viên THCS theo Chuẩn nghề nghiệp.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động đánh giá giáo viên THCS theo Chuẩn nghề nghiệp ở các trường THCS thị xã Quảng Yên tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động đánh giá giáo viên theo Chuẩn nghề nghiệp của Hiệu trưởng các trường THCS thị xã Quảng Yên tỉnh Quảng Ninh.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐÁNH GIÁ GIÁO VIÊN TRUNG HỌC CƠ SỞ THEO CHUẨN NGHỀ NGHIỆP
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Dạy học là hoạt động chủ yếu trong nhà trường, là trung tâm của hoạt động QLGD. Vì vậy, việc kiểm tra - đánh giá chất lượng giảng dạy có vị trí vô cùng quan trọng, có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục.
Thực tiễn dạy học đã chứng minh rằng, muốn hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học thì không thể bỏ qua khâu kiểm tra - đánh giá chất lượng dạy học của giáo viên và kiểm tra kết quả học tập của học sinh. Thông qua đó, các nhà quản lý nói chung, các nhà QLGD nói riêng và đội ngũ các thầy, cô giáo (các nhà sư phạm) có được những thông tin ngược quan trọng để kịp thời phát hiện, điều chỉnh quá trình dạy và học cho phù hợp với đối tượng và thực tiễn giảng dạy.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động đánh giá giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp ở các trường trung học cơ sở thị xã Quảng Yên tỉnh Quảng Ninh - 1
- Quản lý hoạt động đánh giá giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp ở các trường trung học cơ sở thị xã Quảng Yên tỉnh Quảng Ninh - 2
- Quản Lý Hoạt Động Đánh Giá Giáo Viên Theo Chuẩn Nghề Nghiệp
- Quản Lí Hoạt Động Đggv Theo Chuẩn Nghề Nghiệp Của Hiệu Trưởng Trường Thcs
- Thực Trạng Công Tác Đánh Giá Giáo Viên Thcs Thị Xã Quảng Yên Theo Chuẩn Nghề Nghiệp
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Đứng trước nhiệm vụ đổi mới giáo dục - đào tạo nói chung và đổi mới nội dung, phương pháp dạy học nói riêng, Bộ GD&ĐT đã có Thông Tư số 30 [6]; Thông tư số 43 [4]; hay các nghiên cứu cứu của tác giả Trần Bá Hoành (2010) trong bài "Những yêu cầu mới về nghiệp vụ sư phạm trong Chuẩn nghề nghiệp GV trung học 2009"[14], ngoài ra còn nhiều nhà nghiên cứu trong đó những nhà giáo dục học, tâm lý học đã đi sâu nghiên cứu vấn đề đổi mới nội dung dạy học theo phương pháp nâng cao tính hiện đại và gắn khoa học với thực tiễn sản xuất và đời sống, vấn đề lấy học sinh làm trung tâm trong hoạt động dạy học như các tác giả: Trần Hồng Quân, Phạm Minh Hạc, Đặng Quốc Bảo, Phạm Viết Vượng, Đặng Thành Hưng, Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Đức Sơn...
Quản lý đánh giá giáo viên theo Chuẩn là một trong những hoạt động trung tâm của các cấp quản lý giáo dục và của các nhà trường, đồng thời đây
cũng là nội dung quản lý cơ bản, quan trọng nhất trong công tác quản lý trường học. Chính vì lẽ đó, vấn đề quản lý đánh giá giáo viên theo Chuẩn luôn được các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý giáo dục đề cập trong các công trình nghiên cứu khoa học như đề tài: các tác giả Trần Kiều và Lê Đức Phúc (2001) trong bài “Cơ sở khoa học để xác định Chuẩn cho Trường mầm non nông thôn trong công tác chỉ đạo” [16], đã đưa ra những vấn đề cơ bản như xác định khái niệm, thống nhất hệ thống chuẩn mực trong chỉ đạo thực hiện trên cơ sở mục tiêu giáo dục, Chuẩn và “vùng phát triển gần nhất của trẻ mầm non”, mối quan hệ giữa Chuẩn và điều kiện giáo dục, quan điểm hành động trong chỉ đạo. Các tác giả Phan Sắc Long (2005) trong bài “Chuẩn nghề nghiệp GV tiểu học với việc đào tạo, bồi dưỡng và đánh giá GV” [18], Nguyễn Thị Ngọc Quyên (2007) trong bài “Chuẩn nghề nghiệp GV tiểu học và việc thiết chế hóa việc đánh giá năng lực nghề nghiệp GV theo Chuẩn” [23], Trần Ngọc Giao (2007) trong bài phỏng vấn “Hiệu trưởng cũng là một nghề, cần phải có Chuẩn [12], đã nghiên cứu, bàn bạc xoay quanh các vấn đề về mục đích của Chuẩn, nội dung của Chuẩn, việc bồi dưỡng đội ngũ GV đang hành nghề để đáp ứng tốt yêu cầu Chuẩn đưa ra đồng thời đề xuất một số kiến nghị và giải pháp.
Ở bậc trung học, từ năm học 2010-2011, Bộ GD&ĐT ban hành Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học và Thông tư hướng dẫn áp dụng Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học vào đánh giá giáo viên [6], nhưng vận dụng Chuẩn vào đánh giá giáo viên và QL việc đánh giá như thế nào? Cho đến nay, theo những tài liệu mà tác giả có được còn chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về quản lý hoạt động đánh giá giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp. Trong khuôn khổ luận văn, tác giả muốn xác định rõ hơn cơ sở lý luận, khảo sát thực trạng năng lực QL của Hiệu trưởng trong viêc áp dụng Chuẩn vào ĐGGV. Từ đó, đề xuất một số biện pháp tăng cường quản lý cho Hiệu trưởng trong việc ĐGGV theo Chuẩn nghề nghiệp ở các trường THCS thị xã Quảng Yên tỉnh Quảng Ninh đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài nghiên cứu
1.2.1. Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
1.2.1.1. Quản lý giáo dục
Cũng như bất kỳ hoạt động xã hội nào, hoạt động giáo dục cần được tổ chức và quản lý với nhiều cấp độ khác nhau (nhà nước, nhà trường, lớp học…) nhằm thạc hiện có hiệu quả mục đích và các mục tiêu giáo dục phù hợp với từng giai đoạn phát triển của các thể chế chính trị - xã hội ở các quốc gia.
Theo từ điển Tiếng Việt, từ quản lý giáo dục được hiểu là: "Thực hành đầy đủ các chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra trên toàn bộ các hoạt động giáo dục và tất nhiên cả các cấu phần tài chính, vật chất của các hoạt động đó nữa" [27].
Tác giả P.V Khuđôminxky cho rằng: "QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức, có mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống (từ Bộ GD&ĐT đến trường học) nhằm đảm bảo việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hòa của họ trên cơ sở nhận thức và sử dụng các quy luật về giáo dục, của sự phát triển cũng như các quy luật khách quan của quá trình dạy học và giáo dục, của sự phát triển thể chất và tâm lý của trẻ em" [dẫn theo 11, tr.341].
Tác giả Đặng Quốc Bảo thì cho rằng: “Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh mẽ công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội” [1].
Ngày nay với sứ mệnh phát triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho mọi người, tuy nhiên trọng tâm vẫn là giáo dục thế hệ trẻ cho nên quản lý giáo dục được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân.
Từ những khái niệm nêu trên, ta có thể hiểu: Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ thống vận hành theo đường lối giáo dục và nguyên lý của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất.
1.2.1.2. Quản lý nhà trường
Trường học là một tổ chức GD cơ sở của hệ thống GD quốc dân, trực tiếp làm công tác giáo dục đào tạo thế hệ trẻ và các lực lượng lao động.
Theo M.I.Kônđacốp thì: “Quản lý nhà trường là một hệ thống xã hội-sư phạm chuyên biệt. Hệ thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có kế hoạch hướng đích của chủ thể quản lý đến tất cả các mặt đời sống nhà trường, nhằm đảm bảo sự vận hành tối ưu về các mặt xã hội-kinh tế, tổ chức sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ đang trưởng thành” [dẫn theo 11, tr.373].
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý GD để tiến tới mục tiêu GD, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh” [15].
Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: "Quản lý nhà trường là quản lý một thiết chế vừa có tính sư phạm, vừa có tính kinh tế; trong đó nhà trường trung học phải xác định sứ mệnh là đào tạo HS trở thành người lớn có trách nhiệm tự lập với ba giấy thông hành đi vào đời đó là: giấy thông hành học vấn, giấy thông hành kỹ thuật nghề nghiệp và giấy thông hành kinh doanh" [1].
Cũng như các hoạt động quản lý khác, quản lý nhà trường được thực hiện thông qua các chức năng kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra. Ngoài ra người quản lý trường học cần lưu ý các kỹ năng gắn kết với các chức năng đó là: công tác ra quyết định, điều chỉnh và xử lý phản hồi thông tin.
Như vậy, quản lý nhà trường thực chất là quản lý quá trình giáo dục - đào tạo. Tham gia vào quá trình giáo dục - đào tạo có rất nhiều nhân tố khác nhau: mục tiêu đào tạo, nội dung đào tạo, phương pháp đào tạo, đội ngũ người dạy, tập thể người học, hình thức đào tạo, điều kiện đào tạo, môi trường đào tạo, bộ máy đào tạo, quy chế đào tạo. Quản lý nhà trường chính là quản lý các
nhân tố đó, trong đó quản lý đội ngũ người dạy và tập thể người học được coi là trung tâm vì đây là các nhân tố tạo động lực của quá trình giáo dục - đào tạo.
Từ các khái niệm trên có thể hiểu: Quản lý nhà trường thực chất là quản lý quá trình lao động sư phạm của thầy, hoạt động học tập - tự giáo dục của trò diễn ra trong quá trình dạy học - giáo dục. Như vậy, có thể nói quản lý nhà trường thực chất là quản lý quá trình dạy học - giáo dục.
1.2.2. Đánh giá và đánh giá trong giáo dục
1.2.2.1. Đánh giá
Trong lĩnh vực giáo dục, đánh giá là bộ phận hợp thành rất quan trọng, một khâu không thể tách rời của quá trình giáo dục và đào tạo. Nếu coi giáo dục và đào tạo là một hệ thống thì đánh giá đóng vai trò phản hồi của hệ thống, đánh giá có vai trò tích cực trong điều chỉnh hệ thống, là cơ sở cho việc đổi mới giáo dục và đào tạo. Chính vì vậy đánh giá là một trong những vấn đề được quan tâm.
Có rất nhiều định nghĩa về đánh giá trong lĩnh vực giáo dục, tuy nhiên tùy thuộc vào mục đích đánh giá, cấp độ đánh giá và đối tượng đánh giá mà mỗi định nghĩa đều nhấn mạnh hơn vào khía cạnh nào đó của lĩnh vực cần đánh giá.
Theo tác giả C.E. Beeby: “Đánh giá là sự thu thập và lý giải một cách có hệ thống những bằng chứng dẫn tới sự phán xét về giá trị theo quan điểm hành động” [dẫn theo 20, tr.8]
Theo tác giả Trần Bá Hoành: "Đánh giá là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết quả của công việc dựa vào việc phân tích những thông tin thu được, đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc" [13].
Theo tác giả Trần Khánh Đức: "Đánh giá là quá trình xem xét, bình phẩm về các đặc trưng, thuộc tính hay giá trị của một sự vật hoặc hoạt động, hiện
tượng nào đó theo các tiêu chí và chuẩn mực so sánh nhất định (định lượng hoặc định tính)" [11, tr. 574].
Như vậy có thể hiểu: Đánh giá là quá trình tiến hành có hệ thống để xác định mức độ mà đối tượng đạt được các mục tiêu nhất định. Nó bao gồm sự mô tả về định tính hay định lượng những kết quả đạt được và so sánh với mục tiêu đã xác định. Sự đánh giá cho phép xác định mục tiêu đặt ra có phù hợp hay không phù hợp, nó xác định mức độ đạt được mục tiêu cũng như tiến trình thực hiện mục tiêu như thế nào.
1.2.2.2. Đánh giá trong giáo dục
Đánh giá trong giáo dục: là quá trình hình thành những nhận định phán đoán về kết quả của công việc dựa vào sự phân tích những thông tin thu được đối chiếu với mục tiêu, tiêu chuẩn đã đặt ra nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh nâng cao chất lượng giáo dục và hiệu quả công việc.
Đánh giá là biểu thị một thái độ, đòi hỏi một sự phù hợp, theo một chuẩn mực nhất định. Nhờ đó mà người đánh giá (CBQL, GV, nhà sư phạm) cho một thông tin tổng hợp, đôi khi là một con số, đối với người được đánh giá (giáo viên, học sinh).
Trong giáo dục có các loại đánh giá chính sau: Đánh giá kết quả học tập; Đánh giá chương trình đào tạo; Đánh giá giáo viên, học sinh; Đánh giá khóa học; Đánh giá nhà trường (Xếp hạng hoặc kiểm định công nhận cơ sở đào tạo ). Như vậy đánh giá là một mắt xích trọng yếu trong quá trình dạy học. Nó được tiến hành có hệ thống không dừng lại ở sự giải thích thông tin về trình độ kiến thức, kĩ năng thái độ của đối tượng được đánh giá mà còn làm cơ sở để khắc phục, sửa chữa sai lầm và làm cơ sở cho những hành động giáo dục
tiếp theo.
1.2.2.3. Chức năng của đánh giá
Chức năng của kiểm tra, đánh giá là xác định mức độ đạt được mục tiêu của quá trình dạy học và góp phần trực tiếp thúc đẩy và hoàn thiện quá trình dạy học.
Kiểm tra đánh giá nhằm xác định kết quả thực hiện kế hoạch, phát hiện những sai lệch, đề ra biện pháp uốn nắn điều chỉnh kịp thời. Kiểm tra đánh giá không hẳn là giai đoạn cuối cùng của chu kỳ quản lý, bởi kiểm tra không chỉ diễn ra khi công việc đã hoàn thành có kết quả mà nó diễn ra trong suốt quá trình từ đầu đến cuối, từ lúc bắt đầu xây dựng kế hoạch.
Kiểm tra đánh giá có hiệu quả cao là kiểm tra đánh giá mang tính lường trước, phát hiện những sai sót từ khâu lập kế hoạch hay trong quá trình đang diễn ra. Kiểm tra đánh giá phải dựa vào kế hoạch, tiêu chuẩn cụ thể và trách nhiệm cụ thể của mỗi người, mỗi bộ phận đã được xác định.
1.2.2.4. Các quan điểm đánh giá trong giáo dục
Các quan điểm đánh giá trong giáo dục bao gồm: Đánh giá khách quan và đánh giá toàn diện:
- Đánh giá khách quan: Bảo đảm tính khách quan là một yêu cầu cơ bản của mọi hoạt động đánh giá, đặc biệt là trong lĩnh vực đánh giá giáo dục. Yêu cầu khách quan cần được thực hiện trong suốt quá trình đánh giá từ xác định mục đích, yêu cầu, quy trình và phương pháp đánh giá, hệ thống tiêu chí... nhằm phản ánh trung thực các kết quả, giá trị đạt được không bị chi phối bởi định kiến chủ quan của người đánh giá.
- Đánh giá toàn diện: Hoạt động giáo dục là hoạt động trí tuệ đặc thù được thực hiện bởi cá nhân, nhóm người (bao gồm CBQL, GV và học sinh... trong một cơ sở giáo dục) trong môi trường và các điều kiện nhất định (môi trường giáo dục, trang thiết bị, kinh phí, thời gian, đầu tư nhân lực, mục tiêu giáo dục...) nên việc đánh giá cần xem xét một cách toàn diện mọi mặt, các nhân tố khách quan hoặc chủ quan tác động và ảnh hưởng trong quá trình nghiên cứu. Các kết quả và giá trị đạt được trong giáo dục cũng cần được đánh giá toàn diện về mục tiêu giáo dục, khoa học, kinh tế, xã hội, thông tin, đào tạo nhân lực...