Sơ Đồ Thể Hiện Mối Quan Hệ Giữa Các Chức Năng Quản Lý

khoa học: Nâng cao chất lượng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên các trường Đại học sư phạm, năm 2010.

Lưu Xuân Mới: Cải tiến việc quản lý đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng trường phổ thông (Đề tài cấp trường). Trường cán bộ quản lý giáo dục, Bộ GD- ĐT, Hà Nội 12/1998.

Nội dung về công tác chủ nhiệm cũng được nghiên cứu qua các luận văn thạc sỹ chuyên ngành quản lý giáo dục như:

Nghiên cứu của tác giả Đinh Thị Hà với đề tài Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng công tác chủ nhiệm lớp cho sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Gia Lai năm 2003.

Nghiên cứu của tác giả Ngô Thị Chuyên với đề tài Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm lớp tại trường Phổ thông Mạc Đĩnh Chi, quận Dương Kinh năm 2009.

Tác giả Vi T h ú y H o a với luận văn Quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp ở trường Trung học phổ thông Lộc Bình, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn năm 2013.

Tác giả Nguyễn Xuân Tuyên với luận văn Biện pháp quản lý công tác GVCN lớp của hiệu trưởng trường THPT ở tỉnh Yên Bái trong giai đoạn hiện nay năm 2006.

Hiện chưa có công trình nghiên cứu nào được thực hiện ở trường THCS Trịnh Xá, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam về quản lý đội ngũ GVCN.

1.2. Những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài

1.2.1. Giáo viên, GVCN, đội ngũ GVCN

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

1.2.1.1. Giáo viên

Theo Điều 70, Luật Giáo dục nước Cộng hòa XHCN Việt Nam: "Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác", "Nhà giáo ở các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên".

Quản lý đội ngũ giáo viên chủ nhiệm ở trường trung học cơ sở xã Trịnh Xá, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam trong bối cảnh đổi mới giáo dục - 3

Như vậy, giáo viên là tên gọi chỉ nhà giáo thực hiện hoạt động của giáo dục tại các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề [33].

Theo đó, giáo viên thực hiện lao động nghề nghiệp của mình tại các trường THCS được gọi là giáo viên THCS.

1.2.1.2. Giáo viên chủ nhiệm

Trong hệ thống tổ chức của các trường phổ thông, đơn vị cơ bản được tổ chức để giảng dạy và giáo dục học sinh là lớp học. Hình thức tổ chức dạy học, giáo dục theo lớp được hình thành từ thế kỉ XVI do nhà giáo dục Tiệp Khắc - Comenxki đề xướng. Để quản lý lớp học, nhà trường cử ra một trong những giáo viên đang giảng dạy làm chủ nhiệm lớp. GVCN lớp được Hiệu trưởng lựa chọn từ những GV có kinh nghiệm giáo dục, có uy tín trong học sinh, phân công chủ nhiệm các lớp học xác định để thực hiện mục tiêu giáo dục. Như vậy, khi nói đến người GVCN là đề cập đến vị trí, vai trò, chức năng của người làm công tác chủ nhiệm lớp.

GVCN là thành viên của tập thể sư phạm và hội đồng sư phạm, là người thay mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và cha mẹ HS quản lý và chịu trách nhiệm về chất lượng giáo dục toàn diện học sinh lớp mình phụ trách, tổ chức thực hiện chủ trương, kế hoạch của nhà trường ở lớp.

1.2.1.3. Đội ngũ GVCN

Tập hợp các giáo viên làm công tác chủ nhiệm của nhà trường chính là đội ngũ GVCN của trường đó.

1.2.2. Cơ sở lý luận về Quản lý giáo dục

1.2.2.1. Quản lý

Quản lý là một loại hình lao động của con người trong cộng đồng nhằm thực hiện các mục tiêu mà tổ chức hoặc xã hội đặt ra. Loài người đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển với nhiều hình thái xã hội khác nhau nên cũng trải qua nhiều hình thức quản lý khác nhau. Quản lý là một phạm trù tồn tại khách quan và là một tất yếu của lịch sử.

Theo C. Mác: "Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ thể khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng [28, tr 105].

Theo tác giả Frederich William Taylor (1856-1915) người Mỹ: “QL là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ tiền nhất”.

Khi nói về vai trò của quản lý trong xã hội, Paul Herscy và Ken Blanc Heard trong cuốn "Quản lý nguồn nhân lực": "Quản lý là một quá trình cùng làm việc giữa nhà quản lý và người bị quản lý nhằm thông qua hoạt động cá nhân của nhóm huy động các nguồn lực khác để đạt mục tiêu của tổ chức" [31].

Theo Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc: "Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý "người quản lý" đến khách thể quản lý "người bị quản lý" trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức" [14].

Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt cho rằng: "Quản lý là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định".

Từ các định nghĩa trên có thể rút ra một số điểm chung:

- Quản lý là hoạt động lao động, hoạt động này để điều khiển lao động, hoạt động khác.

- Yếu tố con người giữ vai trò trung tâm của hoạt động quản lý.

- Trong quản lý, bao giờ cũng có chủ thể quản lý và đối tượng quản lý, quan hệ với nhau bằng những tác động quản lý. Những tác động quản lý chính là những quyết định quản lý, là những nội dung chủ thể quản lý yêu cầu đối với đối tượng quản lý.

Quản lý là một thuộc tính bất biến nội tại của một quá trình lao động xã hội. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng làm cho xã hội loài người tồn tại, vận hành và phát triển. Quản lý là một hệ thống xã hội trên nhiều phương diện. Điều đó cũng xác lập rằng quản lý phải có một cấu trúc và vận hành trong một môi trường xác định.


Môi trường quản lý

Mục tiêu quản lý

Chủ thể quản lý

Khách thể quản lý

Sơ đồ 1.1. Cấu trúc của một hệ thống quản lý

Hiện nay quản lý được định nghĩa rõ hơn: Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng của các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.

1.2.2.2. Các chức năng của quản lý

- Chức năng kế hoạch hóa: Là quá trình xác định mục tiêu và quyết định những biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó. Thực chất của kế hoạch hóa là đưa toàn bộ những hoạt động vào công tác kế hoạch hóa với mục đích, biện pháp rõ ràng và ấn định tường minh các điều kiện cung ứng cho việc thực hiện mục tiêu.

Kế hoạch hóa là một chức năng quan trọng vì trên cơ sở phân tích các thông tin quản lý, căn cứ vào những tiềm năng đã có và những khả năng sẽ có mà xác định rõ hệ thống mục tiêu, nội dung hoạt động, các biện pháp cần thiết để chỉ rõ trạng thái mong muốn của nhà trường khi kết thúc các hoạt động. Kế hoạch hóa có vai trò to lớn như vậy vì có những chức năng cơ bản cụ thể sau:

+ Chức năng chẩn đoán: Bao gồm việc xác định trạng thái xuất phát và những phân tích về trạng thái đó.

+ Chức năng dự báo: Bao gồm việc xác định nhu cầu và các mục tiêu trên cơ sở phân tích và căn cứ vào hướng dẫn của cấp trên về nhiệm vụ của năm học mới để suy ra những hướng phát triển cơ bản của nhà trường.

+ Chức năng dự đoán: Bao gồm việc phác thảo các phương án chọn lựa có tính tiềm năng của nguồn lực dự trữ và những mong muốn chủ quan.

- Chức năng tổ chức: Nhờ chức năng tổ chức mà hệ thống quản lý trở nên có hiệu quả, cho phép các cá nhân đóng góp phần tốt nhất vào mục tiêu chung. Tổ chức được coi là điều kiện của quản lý. Thực chất của tổ chức là thiết lập mối quan hệ bền vững giữa con người, giữa các bộ phận trong hệ thống quản lý. Tổ chức tốt sẽ khơi nguồn các động lực, tổ chức không tốt sẽ làm triệt tiêu động lực và giảm sút hiệu quả quản lý.

Tổ chức là một thuật ngữ có tính đa nghĩa, được sử dụng rất linh hoạt. Thứ nhất, tổ chức là một hệ thống gồm nhiều người cùng hoạt động vì mục đích chung. Thứ hai, tổ chức là quá trình triển khai các kế hoạch, bao gồm xây dựng những hình thức cơ cấu tổ chức, chỉ đạo thực hiện kế hoạch và kiểm tra đối với kế hoạch. Thứ ba, tổ chức là một chức năng của quá trình quản lý. Đó là các hoạt động được tiến hành sau khi kế hoạch đã được xây dựng nhằm thực hiện kế hoạch đã đề ra. Chức năng tổ chức là hoạt động quản lý nhằm thiết lập một hệ thống các vị trí cho mỗi cá nhân và bộ phận sao cho các cá nhân và bộ phận đó có thể phối hợp với nhau một cách tốt nhất để thực hiện mục tiêu của tổ chức.

Vai trò của chức năng tổ chức: Chức năng tổ chức có tầm quan trọng đặc biệt, tổ chức là nhân tố sinh thành ra hệ toàn vẹn, tạo ra cái gọi là "hiệu ứng tổ chức" như Lê-nin nói: "Tổ chức sẽ nhân sức mạnh lên gấp mười lần". Thành tựu của khâu tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực và phong cách của chủ thể quản lý. Nhờ tổ chức có hiệu quả mà người quản lý có thể phối hợp, điều phối tốt hơn các nguồn lực. Nhờ có tổ chức mà kỷ cương, nề nếp, tác phong làm việc khoa học, sự đoàn kết nhất trí trong tổ chức được đảm bảo; năng lực, sở trường của mỗi người và mỗi bộ phận được phát huy.

Nội dung chủ yếu của chức năng tổ chức: Về bản chất, nội dung tổ chức là việc thực hiện phân công lao động một cách khoa học, là cơ sở để tạo ra năng suất lao động cao.

Yêu cầu của công tác tổ chức: Đảm bảo tính khoa học, hiệu quả; Phân cấp rõ ràng, phối hợp nhịp nhàng; Chỉ rõ nhiệm vụ và quyền hạn, kết hợp trách nhiệm, quyền hạn và quyền lợi; Cụ thể và sáng tạo; Đảm bảo lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài v.v...

- Chức năng chỉ đạo: Chỉ đạo là quá trình tác động ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến hành vi và thái độ của những người khác nhằm các mục tiêu đã đề ra. Chỉ đạo thể hiện quá trình ảnh hưởng qua lại giữa chủ thể quản lý và mọi thành viên trong tổ chức nhằm góp phần thực hiện hóa các mục tiêu đã đặt ra.

Chức năng chỉ đạo, xét cho cùng là sự tác động lên con người, khơi dậy động lực của nhân tố con người trong hệ thống quản lý, thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người và quá trình giải quyết những mối quan hệ đó để họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu.

Một số học giả gọi chức năng này là chức năng điều khiển. Điều khiển tổ chức là quá trình chủ thể sử dụng quyền lực quản lý của mình để tác động lên hành vi của các phần tử trong tổ chức một cách có chủ đích để tổ chức đi đến mục tiêu.

Nhiều học giả gọi chức năng này là chức năng lãnh đạo, chỉ đạo. Theo nghĩa này, chức năng lãnh đạo, chỉ đạo được hiểu như sau: Lãnh đạo là quá trình tác động đến con người sao cho họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu để đạt được các mục tiêu của tổ chức, bao gồm các hoạt động chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn, phối hợp của người quản lý đối với các cá nhân, bộ phận thừa hành trong tổ chức; Chỉ đạo là quá trình tập hợp, liên kết các thành viên trong tổ chức theo sát hoạt động của bộ máy, hướng dẫn, điều chỉnh công việc nhịp nhàng, động viên, khuyến khích, khen thưởng người lao động nhằm đạt mục tiêu của tổ chức.

Nội dung chủ yếu của chức năng: Để thực hiện chức năng này, người quản lý phải ra quyết định. Muốn thực hiện tốt chức năng này, người quản lý phải: Hiểu rõ con người trong tổ chức; Đưa ra các quyết định lãnh đạo thích hợp; Xây dựng nhóm làm việc và làm việc với nhóm; Dự kiến các tình huống và tìm cách xử lý tốt các tình huống xảy ra; Giao tiếp và đàm phán tốt.

- Chức năng kiểm tra: Sau khi xác định các mục tiêu, quyết định những biện pháp tốt nhất để đạt tới các mục tiêu và triển khai các chức năng tổ chức, chỉ đạo để thực hiện hóa các mục tiêu đó cần phải tiến hành hoạt động kiểm tra để xem xét việc triển khai các quyết định trong thực tiễn, từ đó có những điều chỉnh cần thiết trong các hoạt động để góp phần đạt tới mục tiêu đã xác định.

Kiểm tra là việc giúp nhà QL phát hiện các sai sót trong quá trình hoạt động để có giải pháp xử lý, điều chỉnh. Kiểm tra trong QL là quá trình theo dõi giám sát, đo lường, đánh giá diễn biến và kết quả đạt được của các hoạt động, đồng thời tiến hành các biện pháp sửa chữa, uốn nắn, khắc phục những sai lệch cần thiết. Đó cũng là quá trình tự điều chỉnh của tổ chức. Nếu tiếp cận theo góc độ lý thuyết thông tin thì kiểm tra là quá trình thiết lập mối liên hệ ngược giữa người quản lý và đối tượng quản lý. Kiểm tra là hệ thống phản hồi về kết quả của các hoạt động và là hệ thống phản hồi dự báo trước những kết quả có thể xảy ra.

Kiểm tra có vai trò quan trọng trong quá trình QL, là nhu cầu cơ bản để hoàn thành các quyết định QL. Kiểm tra còn giúp hoàn thiện các quyết định QL về nhiều mặt, khẳng định sự đúng sai của đường lối, chính sách, mục tiêu, cơ cấu, cơ chế của tổ chức. Có thể nói rằng "không có kiểm tra là không có QL".

Nội dung chủ yếu của chức năng kiểm tra: Nhiệm vụ của kiểm tra trong các tổ chức là xác định, sửa chữa được những sai lệch trong hoạt động của tổ chức so với mục tiêu, kế hoạch và tìm kiếm các cơ hội, tiềm năng có thể để khai thác, hoàn thiện, cải tiến, đổi mới không ngừng hệ thống.

Tóm lại: Sự phân công và chuyên môn hóa trong hoạt động quản lý đã hình thành nên các chức năng quản lý, đó là chức năng kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra. Các chức năng này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.


Môi trường

Lập Kế hoạch

Kiểm tra

Thông tin

Tổ chức

Chỉ đạo

Sơ đồ 1.2. Sơ đồ thể hiện mối quan hệ giữa các chức năng quản lý

1.2.2.3. Quản lý giáo dục

* Khái niệm giáo dục:

Theo "Từ điển Giáo dục" - NXB Từ điển bách khoa: "Giáo dục là hoạt động hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu chuẩn bị cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội" [41, tr.105].

Theo Nguyễn Sinh Huy, Nguyễn Văn Lê:

- Nghĩa rộng: "Giáo dục là sự hình thành có mục đích và tổ chức những sức mạnh thể chất và tinh thần của con người, hình thành thế giới quan, bộ mặt đạo đức và thị hiếu thẩm mỹ cho con người".

- Nghĩa hẹp: "Giáo dục bao gồm quá trình hoạt động nhằm tạo ra cơ sở khoa học của thế giới quan, lý tưởng đạo đức, thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực của con người, kể cả việc phát triển nâng cao thể lực. Quá trình này xem như một bộ phận của giáo dục tổng thể".

Xem tất cả 126 trang.

Ngày đăng: 23/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí