Quản lý dạy học tự chọn ở các trường trung học phổ thông huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng - 2

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ

Bảng:

Bảng 2.1. Thực trạng nhận thức của CBQL, GV các trường THPT 42

Bảng 2.2. Thực trạng về nội dung DHTC 45

Bảng 2.3. Thực trạng sử dụng phương pháp DHTC 46

Bảng 2.4. Thực trạng về hình thức tổ chức DHTCở các trường THPT huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng 48

Bảng 2.5. Thống kê CSVC, thiết bị dạy học 49

Bảng 2.8. Tổng hợp đánh giá về mức độ thực hiện các nội dung quản lý

kế hoạch dạy học 53

Bảng 2.9. Tổng hợp đánh giá về mức độ thực hiện nội dung,chương trình

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

dạy học tự chọn 54

Bảng 2.10. Thực trạng việc chỉ đạo đổi mới phương pháp, hình thức dạy học

Quản lý dạy học tự chọn ở các trường trung học phổ thông huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng - 2

tự chọn ở các trường THPT huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng 56

Bảng 2.11. Kết quả khảo sát thực trạng QL hoạt động dạy học tự chọn của

GV ở các trường THPT huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng 58

Bảng 2.12. Kết quả khảo sát thực trạng QL hoạt động học tự chọncủa HS

ở các trường THPT huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng 61

Bảng 2.13. Tổng hợp đánh giá về mức độ thực hiện quản lý hoạt động kiểm

tra, đánh giá của giáo viên 63

Bảng 2.14.Thực trạng về yếu tố ảnh hưởng đến quản lý dạy học tự chọnở

các trường THPT huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng 64

Bảng 3.1. Kết quả khảo nghiệm mức độ cần thiết của các biện pháp 86

Bảng 3.2. Kết quả khảo nghiệm mức độ khả thi của các biện pháp 87

Biểu đồ:

Biểu đồ 2.1. Tổng hợp đánh giá về mức độ thực hiện các nội dung quản lý

kế hoạch dạy học 53

Biểu đồ 2.2. Tổng hợp đánh giá về mức độ thực hiện nội dung, chương trình dạy học tự chọn 55

Biểu đồ 3. Kết quả khảo nghiệm mức độ cần thiết và khả thi của các biện pháp 88

Sơ đồ:

Sơ đồ 3.1. Mối quan hệ giữa các biện pháp quản lý dạy học tự chọn 85

MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu

Từ năm học 2019-2020, lộ trình áp dụng chương trình giáo dục phổ thông mới bắt đầu được thực hiện. Nghị quyết số: 88/2014/QH13 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông ghi rõ: “Đổi mới nội dung giáo dục phổ thông theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và định hướng nghề nghiệp; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp học trên.

Ở cấp THPT yêu cầu học sinh học một số môn học bắt buộc đồng thời được tự chọn các môn học và chuyên đề học tập theo hình thức tích lũy tín chỉ” [21].

Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông mới được xây dựng theo định hướng phân hóa mạnh ở cấp THPT, trong đó cùng với các môn bắt buộc và tự chọn (bắt buộc) sẽ có các chuyên đề học tập nhằm đáp ứng học sinh các lớp 11,12 tự chọn nhằm đáp ứng hiểu biết và kỹ năng ban đầu là nhập môn các môn khoa học hoặc ngành nghề; giúp học sinh có những thông tin định hướng và thông tin định hướng và tiếp cận nghề nghiệp sau THPT.

Ở Việt Nam, dạy học tự chọn trong chương trình giáo dục phổ thông dù đã và đang được nghiên cứu, tuy nhiên năng lực tổ chức, quản lý cũng như xây dựng các điều kiện để triển khai dạy học theo quan điểm dạy học phân hóa còn nhiều hạn chế. Việc nghiên cứu các biện pháp quản lý dạy học theo quan điểm dạy học phân hóa là rất cần thiết và quan trọng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. Đặc biệt hơn nữa, ở bậc học Trung học phổ thông vấn đề dạy học phân hóa chưa được chú trọng đúng mức nên chưa phát huy hết tiềm năng và lợi thế của nó.

Trong những năm gần đây, các trường THPT huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng đã và đang tổ chức dạy học phân hóa theo các văn bản chỉ đạo của ngành.Tuy nhiên năng lực tổ chức, quản lý cũng như các điều kiện để tổ chức

quản lý dạy học tự chọn tại nhà trường còn nhiều hạn chế và gặp nhiều lúng túng. Việc nghiên cứu các biện pháp QLDH các môn học tự chọn của nhà trường là vấn đề cấp thiết và quan trọng hiện nay.

Trong những năm qua, với cương vị là Tổ trưởng chuyên môn của nhà trường, bản thân tôi luôn suy nghĩ, trăn trở tìm ra biện pháp quản lý dạy học phù hợp với đặc điểm tình hình của nhà trường nhằm nâng cao chất lượng giáo dục cho nhà trường. Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Quản lý dạy học tự chọn ở các trường THPT huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng" để nghiên cứu.

2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về quản lý dạy học tự chọnở các trường THPT huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng, luận văn đề xuất một số biện pháp quản lý dạy học tự chọn ở các trường THPT huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu: Quản lý dạy học tự chọn ở trường THPT.

3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý dạy học tự chọn ở các trường THPT huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng.

4. Giả thuyết khoa học

Do các biện pháp quản lý dạy học tự chọn chưa rõ ràng nên dạy học môn học tự chọn ở các trường THPT huyện Hạ Lang tỉnh Cao Bằng hiện nay còn nhiều hạn chế. Nếu người hiệu trưởng có được các biện pháp quản lý hoạt động dạy học tự chọn phù hợp với điều kiện phát triển của nhà trường trong giai đoạn hiện nay thì dạy học tự chọn ở các trường THPT huyện Hạ Lang tỉnh Cao Bằng sẽ có hiệu quả hơn.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Xây dựng cơ sở lý luận về quản lý dạy học tự chọn theo chương trình giáo dục trung học phổ thông.

5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý dạy học tự chọn ở các trường THPT huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng.

5.3. Đề xuất biện pháp quản lý dạy học tự chọn cho các trường THPT huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng và khảo nghiệm mức độ cần thiết và khả thi của chúng.

6. Phạm vi nghiên cứu

6.1.Về nội dung

Luận văn tập trung nghiên cứu đề xuất biện pháp quản lý dạy học tự chọn trong chương trình giáo dục phổ thông cho Hiệu trưởng nhà trường.

6.2. Về khách thể khảo sát: Cán bộ quản lý, giáo viên giảng dạy các môn tự chọn và học sinh các trường THPT Hạ Lang và trường THPT Bằng Ca, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng.

6.3. Về thời gian khảo sát: Từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 03 năm 2019.

7. Phương pháp nghiên cứu

7.1. Các phương pháp nghiên cứu lí luận

Mục đích: Sử dụng các phương pháp này để xây dựng cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu.

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể:

- Phân tích và tổng hợp lí thuyết.

- Phân loại và hệ thống hóa lí thuyết.

- Mô hình hóa lí thuyết.

- Phương pháp giả thuyết.

7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn

7.2.1. Phương pháp quan sát

Thu thập thông tin qua việc quan sát hoạt động giảng dạy của giáo viên trongnhàtrườngthôngqua việc dự giờ; quan sát hoạt động quản lý dạy học của Ban giám hiệu, quản lý sinh hoạt tổ chuyên môn của tổ trưởng chuyên môn…

7.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi

Xây dựng hệ thống câu hỏi điều tra hoặc phỏng vấn trực tiếp CBQL,GV và HS với mục đích thu thập các số liệu nhằm xác định thực trạng các biện pháp quản lý dạy học tự chọn hiện có tại nhà trường. Phân tích nguyên nhân của những thành công và hạn chế của thực trạng này.

7.2.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động

Nghiên cứu giáo án, nội dung sinh hoạt tổ nhóm, dự giờ dạy trên lớp của GV… nhằm đánh giá kết quả công tác quản lý dạy học tự chọn tại nhà trường.

7.2.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm

Tổng kết kinh nghiệm quản lí hoạt động giảng dạy của nhà trường thông qua các hội thảo, báo cáo kinh nghiệm, sinh hoạt chuyên môn...

7.3. Các phương pháp hỗ trợ

7.3.1. Phương pháp chuyên gia

Tham khảo ý kiến chuyên gia trong quá trình xây dựng đề cương, thiết kế công cụ nghiên cứu, đề xuất biện pháp... thông qua xêmina, phỏng vấn trực tiếp, xin ý kiến góp ý...

7.3.2. Phương pháp thống kê toán học

Dùng một số công thức toán thống kê để xử lí kết quả nghiên cứu nhằm rút ra kết luận khoa học.

8. Cấu trúc luận văn

Gồm phần mở đầu; kết luận và khuyến nghị; danh mục tài liệu tham khảo; phụ lụcvà 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý dạy học tự chọn ở trường Trung học phổ thông.

Chương 2: Thực trạng quản lý dạy học tự chọn ở các trường Trung học phổ thông huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng.

Chương 3: Biện pháp quản lý dạy học tự chọn ở các trường Trung học phổ thông huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ DẠY HỌC TỰ CHỌN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG.

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Các nghiên cứu trên thế giới

Vào cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, khoa học giáo dục thực sự có sự biến đổi về lượng và chất. Trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, các nhà nghiên cứu giáo dục đã đi sâu nghiên cứu về vai trò và trách nhiệm của đội ngũ CBQL trong việc quản lí HĐDH trong nhà trường. V.A.Xukhomlinxki, V.P. Xtrezicondin, Jaxapob đã nghiên cứu và đề ra một số vấn đề quản lí của HT ở trường phổ thông như vấn đề phân công nhiệm vụ giữa HT và PHT. Các tác giả đã thống nhất và khẳng định HT phải là người lãnh đạo toàn diện và chịu trách nhiệm trong công tác quản lí nhà trường. P.V. Zimin, M.I.Konđakôp, N.I.Saxerđôtôp đã đi sâu nghiên cứu công tác lãnh đạo HĐGD, giáo dục trong nhà trường và xem đây là khâu then chốt trong công tác quản lí của HT [28].

Dạy học tự chọn là một phương thức và xu thế trong giáo dục, xuất hiện từ khá lâu trên thế giới. Xu thế này xuất phát từ mục đích giáo dục phải hướng tới sự phát triển cao nhất của cá nhân học sinh, khai thác và tạo điều kiện năng lực, sở trường, năng khiếu cá nhân được bộc lộ, nuôi dưỡng và hoàn thiện trí tuệ cùng nhân cách học sinh trong suốt quá trình giáo dục.

Mặt khác, DHTC còn là một xu thế nhằm tăng tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của mỗi nhà trường. Phương thức DHTC, cho đến nay, được tổng kết gồm có ba loại hình: học ở nhà, trường tự chọn và chương trình tự chọn. Riêng chương trình tự chọn lại có hai cấp độ khác nhau: đó là môn học tự chọn và chủ đề tự chọn.

- Học ở nhà: là một xu thế xuất hiện khá sớm và phát triển mạnh mẽ ở Mỹ vì lí do tôn giáo (cha mẹ không muốn cho con tới trường công vì muốn gìn giữ, bảo vệ các giá trị truyền thống). Hiện nay, xu hướng này vẫn tồn tại và khá phổ

biến. Tại nước Mỹ, năm 1993, loại hình tự chọn học ở nhà được công nhận và hợp pháp hoá tại 50 bang, với 1,5 triệu học sinh đang học tại nhà, gấp năm lần so với năm 1990 và vượt quá số học sinh đang học tại trường công của thành phố New York. Nhiều chuyên gia giáo dục dự báo, học ở nhà sẽ là loại hình tự chọn phát triển mạnh trong tương lai, nhất là với gia đình kinh tế khá giả, có điều kiện.

- Trường tự chọn: Loại hình trường tự chọn còn xuất hiện sớm hơn, từ đầu thập kỷ 90, ở bang Virginia (Mỹ) và ngày càng phổ biến. Cũng như học ở nhà, trường tự chọn sẽ là kiểu học tập của tương lai.Với loại hình trường tự chọn, học sinh có thể lựa chọn cách thức học tập phù hợp nguyện vọng và thời lượng mỗi môn học.

- Chương trình tự chọn: Sự khác biệt của loại hình học theo chương trình tự chọn, là nó diễn ra ngay trong nhà trường truyền thống, dựa trên một chương trình cốt lõi gồm những chủ đề các môn học, tự chọn ở đây đi theo hai cấp độ khác nhau, bao gồm môn học tự chọn và chủ đề tự chọn.

- Môn học tự chọn: do giáo viên lựa chọn (có sự tham khảo ý kiến của các bậc cha mẹ). Theo các chuyên gia giáo dục, ở nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, mục đích của môn học tự chọn là nhằm phát huy sở trường, hứng thú của học sinh, nâng cao trình độ văn hoá, thúc đẩy sự phát triển về thể chất, tâm hồn và các kỹ năng tư duy, hành động, khả năng giải quyết vấn đề của học sinh.

- Chủ đề tự chọn: Hệ thống các chủ đề tự chọn nhằm mục đích đào sâu, mở rộng kiến thức hoặc khai thác kiến thức theo các nguyện vọng cá nhân trong khuôn khổ các môn học bắt buộc vốn có.

Như vậy,chủ đề tự chọn chỉ là một nhánh nhỏ của loại hình học theo chương trình tự chọn.

Các nước trên thế giới, cấp trung học phổ thông kéo dài trong 3 năm (một số nước là 2 năm dành cho độ tuổi từ 15 đến 18. Nhìn chung trên thế giới giáo dục trung học phổ thông đều hướng vào mục tiêu chủ yếu là hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có

điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, do đó hiện nay giáo dục trung học phổ thông đã quan tâm nhiều hơn đến chất lượng, phấn đấu để ngày càng có nhiều học sinh được hưởng một nền giáo dục trung học có chất lượng được nâng cao, chuẩn bị nguồn lực cho con người thế kỷ XXI, thế kỷ của đỉnh cao trí tuệ. Nội dung chương trình dạy học ở các nước chủ yếu vẫn là học nhiều môn, bao gồm tất cả các nội dung liên quan đến đời sống hàng ngày của trẻ và các kiến thức về khoa học cơ bản. Một số nước đã chú ý rèn luyện khả năng thực hành, tính tự tin, khả năng tự khám phá và kỹ năng sống cho học sinh.Về thời lượng học, phần lớn các nước đều tổ chức học cả ngày (dạy học 2 buổi/ngày). Để hình thức dạy học 2 buổi/ngày không lãng phí về thời gian mà mang lại hiệu quả dạy học cao thì cần phải có chương trình DHTC ở buổi thứ hai, do đó ngoài các môn học bắt buộc thuộc chương trình chính khoá các nước đã tăng số lượng các môn học dưới hình thức DHTC được tiến hành hết sức nhẹ nhàng, vừa sức với học sinh.

Giáo dục Trung học phổ thông Thái Lan

GDTrH ở Thái Lan thực hiện bắt buộc 3 năm đối với mọi trẻ em từ 15 đến 18 tuổi. Nội dung chương trình trung học phổ thông ở Thái Lan gồm 4 lĩnh vực:

Từ năm 2000 học sinh được tự lựa chọn các môn học yêu thích. Sự thay đổi này đã biến lối học vẹt truyền thống thành những hình thức học sáng tạo và kích thích trí tuệ của các bạn học sinh hơn. Các trường trung học phổ thông ở Thái Lan đã chú trọng đến nội dung chương trình DHTC, đưa các môn tự chọn và chủ đề tự chọn vào dạy cho học sinh ngoài chương trình dạy học các môn học bắt buộc.

Về cơ sở vật chất, mỗi trường học đều có đầy đủ 1 phòng học/1 lớp, với đủ bàn ghế 1 đến 2 chỗ ngồi, có đủ phòng học chuyên biệt, phòng chức năng, thư viện, phòng thiết bị thí nghiệm, phòng học tiếng, phòng học vi tính, phòng họp, sân chơi rộng rãi. Đổi mới giáo dục ở Thái Lan thực hiện từng công đoạn dựa theo điều kiện và sự phát triển của mỗi vùng.

Giáo dục Trung học phổ thông ở Trung Quốc

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 20/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí