Bước vào thế kỷ XXI, dưới sự phát triển mạnh m của thời đại công nghệ số, việc số hóa toàn cầu đang ngày càng được đẩy mạnh. Bởi vậy, cuộc sống cũng đè nặng lên con người những áp lực nhất định. Chúng ta dần thiếu đi những hiểu biết, kĩ năng cần có để đối diện với những rủi ro mà cuộc sống đưa đến. Một trong những thế hệ đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi sự tiến công của cách mạng 4.0 đó là giới trẻ, họ thiếu hụt những KNS cần thiết, bối rối khi đối diện với khó khăn. Vì vậy, giáo dục KNS đã và đang trở thành nhiệm vụ cần và cấp thiết của mỗi quốc gia, và môi trường thuận lợi nhất để rèn luyện KNS chính là môi trường giáo dục.
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam vấn đề giáo dục KNS cho thế hệ trẻ đã thu hút nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu, trong đó ngành khoa học giáo dục giữ một trọng trách vô cùng to lớn về nghiên cứu lý luận và triển khai thực tiễn giáo dục KNS cho học sinh, sinh viên phù hợp với thực tiễn giáo dục hiện đại.
“Với nhiều năm làm công tác nghiên cứu về khoa học giáo dục, PGS.TS Hà Nhật Thăng đã xuất bản cuốn sách: “Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức nhân văn” năm 1998 và đã tái bản nhiều lần. Trong đó, trang bị cho các em học sinh sinh viên nắm vững những hệ thống giá trị giáo dục cốt lõi, đó là cơ sở cơ bản của nhân cách con người, rèn luyện để thế hệ trẻ đang lớn lên có những hành vi ứng xử tương ứng với hệ thống giá trị đạo đức nhân văn cốt lõi của dân tộc, phù hợp với yêu cầu của xã hội phát triển và của thời đại. Những kết quả nghiên cứu đó đã được ứng dụng vào việc xây dựng chương trình giáo dục KNS cho học sinh và được đưa vào trong sách giáo khoa ở cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông của môn Giáo dục công dân, thực hiện từ năm 2000 trên phạm vi toàn quốc”[43].
“Tác giả Nguyễn Thanh Bình và cộng sự của mình đã triển khai nghiên cứu khoa học tổng quan về quá trình nhận thức về KNS ở Việt Nam và đưa ra những đề xuất yêu cầu tiếp cận KNS trong giáo dục và GD KNS ở nhà trường phổ thông trong hệ thống giáo dục quốc dân, đồng thời tìm hiểu thực trạng vấn đề GD KNS trong thực tiễn giáo dục cho đối tượng người học từ trẻ mầm non đến người lớn thông qua các chương trình giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên trong giáo dục ở Việt Nam. Từ những cơ sở nghiên cứu như vậy, tác giả đã xác định
những thách thức và định hướng nhu cầu GD KNS trong tương lai ở Việt Nam để đẩy mạnh GD KNS và đối chiếu với các nội dung trong mục tiêu 3 và mục tiêu 6 của Chương trình hành động Dakar (Trong chương trình hợp tác giữa Viện chiến lược và chương trình giáo dục với UNESCO tại Hà Nội, Việt Nam)”[8].
Hiện nay, việc giáo dục KNS cho học sinh ở nước ta đã được quan tâm nhiều hơn trước, đặc biệt là khi triển khai Nghị quyết Trung ương lần thứ 29, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục, các cuốn tài liệu đã nhấn mạnh đến việc giáo dục đạo đức, pháp luật, kỹ năng sống. Nội dung giáo dục KNS cho học sinh trong nhà trường trung học cơ sở tập trung vào các kỹ năng tâm lý- xã hội, là những kỹ năng được vận dụng trong những tình huống hàng ngày để tương tác với người khác và giải quyết hiệu quả những vấn đề, những tình huống thực tiễn của cuộc sống.Sự khác biệt về tư chất, năng khiếu, tư cách của mỗi cá nhân là vấn đề đặt ra đối với đổi mới giáo dục. Vì thế, tùy thuộc vào tâm sinh lý lứa tuổi, hoàn cảnh, môi trường sống mà giáo viên cần dạy cho từng học sinh những kỹ năng thiết yếu, phù hợp. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, do sức ép của thi cử mà các hoạt động giáo dục trong nhà trường vẫn chủ yếu tập trung vòa việc truyền thụ kiến thức, các hoạt động rèn luyện KNS tại các trường THCS, nhất là loại hình trường PTDTNT THCS còn giản đơn và chiếm tỷ lệ thấp trong các hoạt động tại Nhà trường.
Như vậy vấn đề giáo dục KNS cho học sinh không còn là vấn đề mới trong các nhà trường mà là một nhiệm vụ hết sức quan trọng được các nhà trường xây dựng trong kế hoạch từng năm học, nhưng chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến giáo dục KNS cho các em học sinh, chưa giáo dục một cách đầy đủ phẩm chất nhân cách, mà chỉ chú ý đến giáo dục hành vi, rèn luyện biểu hiện bên ngoài, vì vậy đa số các em học sinh chưa hiểu được bản chất của các KNS cần thực hiện, dẫn đến kết quả giáo dục ở một số trường học chưa tốt, số học sinh, sinh viên có những hành vi lệch chuẩn trong các nhà trường ngày càng ra tăng trong thời gian gần đây, gây ra sự lo lắngcho cha mẹ học sinh và bức xúc trong dư luận, là sự trăn trở của cả ngành giáo dục. Do đó, khoa học giáo dục hiện đại ngày nay đang tập trung các nguồn lực vào nghiên cứu giáo dục KNS, nhằm đem lại hiệu quả thiết thực nhất trong thực
tiễn giáo dục KNS cho học sinh nói riêng và trong giáo dục để phát triển hoàn thiện nhân cách con người trong xã hội hiện đại.
“Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc và Đinh Thị Kim Thoa, Vũ Phương Liên trong các công trình nghiên cứu khoa học về KNS đã có cuốn sách “Hoạt động giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống cho học sinh trung học” trong đó, chỉ ra mối quan hệ liên thuộc giữa giáo dục GTS và KNS, giáo dục GTS luôn là nền tảng, KNS là công cụ và phương tiện để tiếp nhận và thể hiện giá trị sống. Đây là những tiền đề để các nhà nghiên cứu khoa học giáo dục đưa công tác giáo dục giá trị sống, KNS cho học sinh THCS nói riêng và các cấp học nói chung vào các nhà trường một cách đồng bộ và mạnh m , mang lại hiệu ứng tích cực trong xã hội, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho nhân dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”[37].
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lí hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tại trường phổ thông dân tộc nội trú trung học cơ sở huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ trong tình hình hiện nay - 1
- Quản lí hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tại trường phổ thông dân tộc nội trú trung học cơ sở huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ trong tình hình hiện nay - 2
- Mục Tiêu Giáo Dục Kns Cho Học Sinh Trường Pt Dtnt Thcs
- Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Kĩ Năng Sống Cho Học Sinh Trường Ptdt Nội Trú Thcs
- Khái Quát Về Trường Phổ Thông Dân Tộc Nội Trú Thcs Huyện Thanh Sơn, Tỉnh Phú Thọ
Xem toàn bộ 172 trang tài liệu này.
Luận văn “Quản lý hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tại trường Phổ thông Dân tộc Nội trú Trung học cơ sở huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ trong tình hình hiện nay” có kế thừa và phát triển những kết quả của nhiều công trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước. Vấn đề luận văn quan tâm không chỉ là giáo dục KNS cốt lõi và cần thiết cho học sinh trường trường PTDTNT THCS Thanh Sơn, mà còn chú trọng đưa ra các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục KNS theo hướng tích hợp vào các môn học văn hóa và phối hợp chặt ch giữa nhà trường, gia đình và xã hội như là một thiết chế thống nhất với vai trò chủ đạo của Nhà trường đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Kĩ năng sống; Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
1.2.1.1. Khái niệm kĩ năng sống
“Kĩ năng” là khả năng thao tác, thực hiện một hoạt động nào đó; Kỹ năng sống là khái niệm được sử dụng rộng rãi nhằm vào mọi lứa tuổi trong mọi lĩnh vực hoạt động, thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, KNS vừa mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội. [14]
Theo Tổ chức Y tế thế giới -WHO (1993) “ KNS là khả năng để có hành vi
thích ứng và tích cực, giúp cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày.”[14].
Quỹ nhi đồng liên hợp quốc (UNICEF) quan niệm “KNS là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới”. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng. [14].
Trong cuốn sách: Giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho học sinh trung học. (Nxb Đại học quốc gia Hà Nội) của nhóm tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc – Đinh Thị Kim Thoa – Trần Văn Tính – Vũ Phương Liên; đã nêu khái niệm KNS có tính chung nhất là: Kĩ năng sống chính là kỹ năng tự quản lý bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói một cách khác, KNS là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác, với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống [37].
Như vậy từ các quan điểm ở trên, có thể hiểu KNS là năng lực thực hiện một hành vi hay một hoạt động nào đó bằng cách lựa chọn và vận dụng những tri thức, cách thức hành động, thao tác đúng đắn để đạt được mục đích đề ra. KNS luôn được điều khiển bởi hệ giá trị sống tương ứng.
1.2.1.2. Khái niệm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
Đối với lứa tuổi học sinh, nhất là các em học sinh bậc trung học cơ sở, giáo dục kĩ năng sống là một trong những môn học trang bị những tri thức khoa học cuộc sống nhằm giúp cho các em học sinh hình thành nên những kĩ năng sống cần thiết, tương ứng với từng giai đoạn phát triển của con người với môi trường sống, môi trường xã hội để các em tiếp nhận và trưởng thành.
Thông qua các hoạt động giáo dục kĩ năng sống cụ thể s trang bị cho các em học sinh các kĩ năng làm chủ, kĩ năng biết từ chối, khả năng tự đưa ra quyết định của bản thân và biết thích nghi với hoàn cảnh sống, biết cách chấp nhận, hóa giải được những tác động và hiện tượng xã hội tiêu cực trong cuộc sống chung quanh mình.
Giáo dục kỹ năng sống là hoạt động giáo dục giúp cho người học hình thành và phát triển những thói quen, hành vi, thái độ tích cực, lành mạnh trong việc ứng xử các tình huống của cuộc sống cá nhân và tham gia đời sống xã hội,
qua đó hoàn thiện nhân cách và định hướng phát triển bản thân tốt hơn, dựa trên nền tảng các giá trị sống.
Việc giáo dục những KNS chính là sự chuyển hóa các kiến thức, hành động, thao tác vào thực tiễn để cho học sinh có khả năng hoạt động độc lập, sống chủ động, ngăn ngừa và tránh được những khó khăn trong thực tiễn đời sống và cũng là hoàn thiện những giá trị sống đã có.
Đối với học sinh, nhất là học sinh các trường phổ thông dân tộc nội trú trung học cơ sở, giáo dục KNS là hoạt động trang bị những tri thức giúp học sinh hình thành những kĩ năng sống cần thiết, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của con người với môi trường sống.
1.2.2. Quản lý hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THCS
Kĩ năng sống cho các em học sinh được hình thành thông qua quá trình xây dựng những hành vi, những thói quen lành mạnh và thay đổi những hành vi, những thói quen tiêu cực trên cơ sở giúp cho các em học sinh có cả kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng thích hợp. Vì vậy, kỹ năng sống phải được hình thành cho các em học sinh thông qua con đường đặc trưng đó là: hoạt động giáo dục và hoạt động giáo dục cần phải được quản lí một cách khoa học.
Quản lý hoạt động giáo dục KNS là hoạt động của nhà quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của các lực lượng giáo dục, huy động tối đa các nguồn lực xã hội để giáo dục KNS trong nhà trường.
Quản lý hoạt động giáo dục KNS chính là những công việc của nhà trường mà người quản lý trường học thực hiện những chức năng quản lý để tổ chức công tác giáo dục KNS. Đó chính là những hoạt động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý nhằm trang bị cho học sinh những KNS phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, trình độ học vấn và bối cảnh sống của các em.
Từ đó, có thể hiểu khái niệm quản lí hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho các em học sinh THCS được hiểu như sau: Quản lí hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THCS là quá trình tiến hành những hoạt động khai thác, lựa chọn, tổ chức và thực hiện các nguồn lực, các tác động của chủ thể quản lí theo kế hoạch chủ động và phù hợp với quy luật khách quan để gây ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nhằm tạo ra sự thay đổi hay tạo ra hiệu quả cần thiết
của hoạt động này theo mục tiêu giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh đã đề ra.
Quản lý hoạt động giáo dục KNS trong nhà trường cho các em học sinh THCS là một hệ thống những tác động sư phạm hợp lý và có hướng đích của chủ thể quản lý (Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng) nhằm tập hợp mọi nỗ lực của các thành tố tham gia vào quá trình hoạt động giáo dục KNS (giáo viên, cán bộ nhân viên, tổ chức đoàn thể, nội dung, chương trình, kế hoạch…), huy động và phối hợp sức lực, trí tuệ của các lực lượng xã hội khác vào mọi mặt hoạt động giáo dục KNS trong nhà trường, hướng vào việc hoàn thành có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh.
1.3. Một số vấn đề lý luận về hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trường PTDTNT trung học cơ sở
1.3.1. Trường PTDTNT và đặc điểm học sinh trường PT DTNT THCS
1.3.1.1. Trường phổ thông dân tộc nội trú
Trường phổ thông dân tộc nội trú (PT DTNT) là một trong những loại hình trường công lập, chuyên biệt trong hệ thống giáo dục quốc dân. Trường dành cho thanh, thiếu niên các dân tộc thiểu số với mục tiêu tạo nguồn đào tạo cán bộ và nguồn nhân lực có trình độ cho vùng dân tộc thiểu số, miền núi (DTTS, MN).
Trường PT DTNT có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp phát triển toàn diện kinh tế - xã hội và củng cố an ninh, quốc phòng ở vùng DTTS, MN của cả nước.
Hiện trên cả nước có có 315 trường PT DTNT ở 49 tỉnh, thành phố với tổng số 109.245 học sinh nội trú (HSNT). Trong đó, có 59 trường PT DTNT cấp tỉnh, 256 trường cấp huyện, có 03 trường PT DTNT trực thuộc Bộ GD&ĐT.
Quy mô trung bình của trường cấp tỉnh khoảng 600 học sinh, trường cấp huyện khoảng 290 học sinh. Đến nay, số trường PT DTNT được công nhận đạt chuẩn quốc gia đã đạt khoảng 40%. (Số liệu trích trong hội nghị tổng kết 10 năm các trường Phổ thông dân tộc nội trú toàn quốc giai đoạn 2008 – 2018 diễn ra ngày 18/12/2019 tại tỉnh Yên Bái.)
Chất lượng giáo dục của các trường PT DTNT ngày càng được nâng cao, từng bước khẳng định vị thế là trường hàng đầu về chất lượng giáo dục ở vùng DTTS, MN.
Mô hình trường PTDTNT cũng đã khẳng định được vai trò to lớn trong việc tạo nguồn đào tạo cán bộ, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng ở
vùng DTTS, MN, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, biên giới và hải đảo trong suốt giai đoạn vừa qua.
* Hệ thống các nhà trường phổ thông dân tộc nội trú ở Việt Nam, được quy định tại Điều 4 Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú ban hành kèm theo Thông tư 01/2016/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo banh hành.[13] (Tham khảo phần phụ lục).
* Nhiệm vụ của các trường phổ thông dân tộc nội trú được quy định tại Điều 3 Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú ban hành kèm theo Thông tư 01/2016/TT-BGDĐT [13]
* Mục tiêu, vai trò, tính chất của trường phổ thông dân tộc nội trú được quy định tại Điều 2 Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú ban hành kèm theo Thông tư 01/2016/TT-BGDĐT [13].
* Thực hiện chương trình và các hoạt động giáo dục trong trường phổ thông dân tộc nội trú được quy định tại Điều 21 Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú ban hành kèm theo Thông tư 01/2016/TT-BGDĐT [13].
1.3.1.2. Đặc điểm học sinh trường Phổ thông dân tộc Nội trú
* Học sinh dân tộc nội trú
Đối tượng học sinh dân tộc nội trú của cả nước được hiểu là những học sinh người dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đang học tập tại các trường nội trú trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Nhiệm vụ và quyền hạn của học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú được quy định tại Điều 17 Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú ban hành kèm theo Thông tư 01/2016/TT-BGDĐT như sau: Ngoài các nhiệm vụ và quyền hạn của học sinh được quy định tại Điều lệ trường trung học hiện hành, học sinh trường PTDTNT còn có nhiệm vụ và quyền hạn sau:
“1. Giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc mình, tôn trọng văn hóa của các dân tộc khác.
2. Chấp hành nghiêm túc sự phân công đi học ngành, nghề và sự phân công công tác theo yêu cầu của địa phương.
3. Được ăn, ở, sinh hoạt trong khu nội trú và được hưởng các chế độ ưu tiên, ưu đãi theo quy định của Nhà nước” [13].
* Đặc điểm phát triển của học sinh trường Phổ thông dân tộc Nội trú
Ở các trường PTDTNT đối tượng đào tạo của nhà trường là con em các dân tộc thiểu số, con em các dân tộc định cư lâu đời ở các vùng có điều kiện KT- XH đặc biệt khó khăn. Đa số các em chăm ngoan, chịu khó, biết nghe lời của các thầy cô giáo và người lớn tuổi. Chăm chỉ cần cù trong các hoạt động lao động sản xuất, yêu thích và có năng khiếu nhất định về các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao và các hoạt động tập thể khác. Năng lực nhận thức của các em học sinh chưa đồng đều, một số em khả năng tư duy còn hạn chế, nhất là ở khối lớp 6. Một số ít các em học sinh còn chưa chăm chỉ học tập, chưa xác định động cơ học tập đúng đắn, … Một số phong tục tập quán lạc hậu ở vùng dân tộc cũng có ảnh hưởng xấu nhất định đến nề nếp sinh hoạt của các em như: tác phong chậm chạp, thích uống rượu, yêu và kết hôn sớm, ham chơi, mải vui, không ham mê học văn hóa…..
Với đặc điểm đối tượng học sinh như vậy, cho thấy các em học sinh dân tộc khi hòa nhập với cuộc sống nội trú còn nhiều bỡ ngỡ, lúng túng, nhiều mặt chưa có mục tiêu phấn đấu và chuyên tâm học tập. Vì vậy ngoài việc đáp ứng yêu cầu quản lý các em học sinh tham gia ở nội trú trong KTX nhà trường, Ban Lãnh đạo, GV ở các trường PTDTNT còn phải đáp ứng được các năng lực khác để giáo dục và chăm sóc các em đạt hiệu quả tốt nhất như: có vốn hiểu biết về tâm sinh lí, ngôn ngữ, phong tục, tập quán đặc trưng của mỗi dân tộc, mỗi địa phương nơi các em sinh sống, biết khơi dậy cho các em lòng tự hào và truyền thống văn hóa dân tộc để các em có ý chí cùng hướng phấn đấu đúng đắn. Giáo dục cho các em bằng tình cảm yêu thương, biết giúp đỡ, hỗ trợ nhau cùng tiến bộ. Quan trọng nhất là việc giúp các em khắc phục, sửa chữa những phong tục tập quán, thói quen lạc hậu là công việc gặp rất nhiều khó khăn. Cho nên, công tác quản lý hoạt động giáo dục KNS cho các em học sinh ở các trường PTDTNT phải phù hợp với đặc thù của ngôi trường nội trú, với công tác quản lý và giáo dục của nhà trường.
Trong những năm qua, hệ thống các trường PTDTNT trên cả nước đã từng bước phát triển và khẳng định vị trí quan trọng của nhà trường trong công tác đào tạo nguồn cán bộ có trình độ cao cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số, miền núi, đáp