- Đối tượng khảo sát: CBQL (Ban giám hiệu, Tổ trưởng chuyên môn (TTCM)); GV giảng dạy môn Toán ở 10/10 trường THCS tại thị xã Vĩnh Châu.
- Cách thực hiện:
Dựa trên cơ sở lí luận, đề tài xây dựng phiếu thăm dò mở bao gồm các câu hỏi về từng mặt cần khảo sát của thực trạng việc dạy học môn Toán theo định hướng phát triển năng lực HS ở các trường THCS thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng được phát và thu trực tiếp. Các ý kiến trả lời được tổng hợp và phân loại nhằm cải biến các câu hỏi mở thành câu hỏi lựa chọn. Những câu hỏi này kết hợp với phần trưng cầu ý kiến đánh giá bảng hỏi trở thành phiếu thăm dò khảo nghiệm. Từ các ý kiến thu về ở phiếu thăm dò khảo nghiệm để hoàn thiện thành bảng hỏi chính thức. Chúng tôi đã xây dựng hai loại phiếu hỏi dành cho CBQL, GV dạy môn Toán ở 10/10 trường THCS thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.
- Công cụ thực hiện:
+ Bảng hỏi dành cho CBQL ở 10/10 trường THCS thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.
+ Bảng hỏi dành cho GV dạy môn Toán ở 10/10 trường THCS thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.
7.2.3. Phương pháp thống kê toán học
- Mục đích: Xử lí số liệu thu được từ phương pháp điều tra bằng bảng hỏi và các phương pháp khác nhằm định lượng kết quả nghiên cứu làm cơ sở để phân tích, bình luận định tính. Tương quan của các chỉ số có thể giúp người nghiên cứu xác định những vấn đề cần được quan tâm, chú trọng để từ đó xây dựng những biện pháp khả thi, phù hợp với điều kiện thực tế.
- Cách thức thực hiện: Các thông tin thu thập từ điều tra thực trạng được xử lí và phân tích trên máy vi tính với phần mềm xử lí thống kê SPSS for Windows 20.0 để tính tần số, thứ hạng, tỷ lệ phần trăm, trị số trung bình, độ lệch chuẩn.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lí hoạt động dạy học môn Toán theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở các trường trung học cơ sở thị xã Vĩnh Châu tỉnh Sóc Trăng - 1
- Quản lí hoạt động dạy học môn Toán theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở các trường trung học cơ sở thị xã Vĩnh Châu tỉnh Sóc Trăng - 2
- Quản Lí Hoạt Động Dạy Học Môn Toán Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực Hs
- Nội Dung Quản Lí Dạy Học Môn Toán Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực Hs Ở Trường Thcs
- Quản Lí Các Điều Kiện Đảm Bảo Cho Hoạt Động Dạy Học Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực Hs Ở Trường Thcs
Xem toàn bộ 190 trang tài liệu này.
8. Cấu trúc của luận văn
Chương 1: Cơ sở lí luận về hoạt động dạy học, công tác quản lí HĐDH học môn Toán theo định hướng phát triển năng lực HS ở các trường THCS
Chương 2: Thực trạng quản lí HĐDH môn Toán theo định hướng phát triển năng lực HS ở các trường THCS thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng
Chương 3: Một số biện pháp quản lí HĐDH môn Toán theo định hướng phát triển năng lực HS ở các trường THCS thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN TOÁN THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Nhà sư phạm vĩ đại J.A.Comenxki (1592-1670) đã đưa ra những yêu cầu cải tổ nền giáo dục theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của người học. Theo ông, dạy học thế nào để người học thích thú học tập và có những cố gắng bản thân để nắm lấy tri thức. Ông nói: “Tôi thường bồi dưỡng cho học sinh của tôi tinh thần độc lập trong quan sát, trong đàm thoại và trong việc ứng dụng tri thức vào thực tiễn”. Ông còn viết: “Giáo dục có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát triển nhân cách… Hãy tìm ra phương pháp cho giáo viên dạy ít hơn, học sinh học được nhiều hơn” (Nguyễn Thị Phương, 2009).
John Dewey (1859-1670), nhà sư phạm người Mỹ, đã đề cao hoạt động đa dạng của HS, đặc biệt là hoạt động thực tiễn để bổ sung vào kiến thức của HS ngoài sách giáo khoa (SGK) và lời giảng của GV. Ông đặc biệt chú ý đến hoạt động khi viết: “Học sinh là mặt, xung quanh nó quy tụ mọi phương tiện giáo dục, nói không phải là dạy, nói ít hơn, chú ý nhiều đến việc tổ chức hoạt động của học sinh”. Đây là ý tưởng khởi nguồn cho triết lý “Lấy học sinh làm trung tâm giáo dục” (Nguyễn Đức Quang, 2013).
Các nhà nghiên cứu giáo dục Nga khẳng định rằng: “Kết quả của toàn bộ hoạt động quản lí của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng đắn và hợp lý hoạt động giảng dạy của đội ngũ GV” (V.A.XukhomLinxki, 1984).
Tác giả P.V.Zimin, M.I.Konđakôp “đi sâu nghiên cứu lãnh đạo công tác giảng dạy, giáo dục trong nhà trường và xem đây như khâu then chốt trong hoạt động quản lí của hiệu trưởng, các tác giả thống nhất và khẳng định người hiệu trưởng phải là người lãnh đạo toàn diện và chịu trách nhiệm chính trong công tác quản lí nhà trường” (V.A.XukhomLinxki, 1984).
1.1.2. Tình nghiên hình cứu trong nước
Ở Việt Nam, tác giả Trần Kiểm với tác phẩm “Những vấn đề cơ bản khoa học quản lí giáo dục” (Trần Kiểm, 2008) đã nghiên cứu về quản lí, quản lí giáo dục, đặc điểm và bản chất của quản lí giáo dục, xu hướng đổi mới của quản lí giáo dục.
Trần Công Bình (2017), Quản lí hoạt động dạy môn Toán theo định hướng phát triển năng lực HS các Trường Trung học phổ thông ở Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (Trần Công Bình, 2017).
Nhiều tác giả đã có những công trình nghiên cứu đề cập ít nhiều về phương diện quản lí trong quá trình dạy học môn Toán sao cho có hiệu quả nhất. Tiêu biểu như: PPDH đại cương môn Toán của tác giả Nguyễn Bá Kim (2010); Vận dụng lý luận vào thực tiễn dạy học môn Toán ở trường phổ thông của tác giả Bùi Văn Nghị (2009); Cẩm nang dạy và học môn Toán THCS của tác giả Vũ Hữu Bình (2007)…
1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.2.1. Quản lí trường học
a. Quản lí
Quản lí là một phạm trù tồn tại khách quan và ra đời một cách tất yếu do nhu cầu theo từng chế độ xã hội, với mọi tổ chức, mọi quốc gia, mọi thời đại. Vì vậy trong lao động quản lí luôn là một lĩnh vực lao động trí tuệ và thực tiễn phức tạp nhất của con người, nhằm điều khiển lao động thúc đẩy xã hội phát triển một cách toàn diện. Do đó, khoa học quản lí cũng như nhiều khoa học xã hội - nhân văn thường gắn với quá trình phát triển của xã hội loài người nói chung nó còn mang tính lịch sử, tính giai cấp của dân tộc trong thời đại. Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lí là những tác động của chủ thể quản lí trong việc huy động phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài nước (chủ yếu lànội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất” (Trần Kiểm, 2002).
Khái quát hơn các tác giả ở Khoa Sư phạm – Đại học quốc gia Hà Nội là Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc đưa ra quan niệm: “Quản lí là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lí đến đối tượng quản lí nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức” (Nguyễn Quốc Trí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc, 1996).
Tác giả Nguyễn Phúc Châu lại cho rằng: “Quản lí là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lí (người quản lí) lên khách thể quản lí (những người bị quản lí) bằng việc sử dụng các phương tiện quản lí nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt tới mục tiêu quản lí” (Nguyễn Phúc Châu, 2010).
Những quan niệm trên tuy có khác nhau, song có thể khái quát: Quản lí là tổ hợp các tác động chuyên biệt, có chủ đích của chủ thể quản lí lên khách thể quản lí và đối tượng quản lí nhằm phát huy tiềm năng của các yếu tố, các mối quan hệ chức năng, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và cơ hội của tổ chức/hệ thống… trên cơ sở đó đảm bảo cho tổ chức, hệ thống vận hành (hoạt động) tốt, đạt được các mục tiêu đã đặt ra với chất lượng và hiệu quả tối ưu trong các điều kiện biến động của môi trường.
b. Quản lí giáo dục
Quản lí giáo dục là sự vận dụng một cách cụ thể các nguyên lý của quản lí nói chung vào lĩnh vực giáo dục. Tuy nhiên, cần làm rõ nội hàm khái niệm, để từ cơ sở lý thuyết đó giúp xác định nội dung và các biện pháp quản lí giáo dục đạo đức trong công tác quản lí nhà trường.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: Quản lí giáo dục theo nghĩa tổng quát, là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lí trong hệ thống giáo dục, là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân, điều hành các cơ sở giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu đẩy mạnh công tác giáo dục theo yêu cầu phát triển của xã hội (nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài) (Đặng Quốc Bảo, 1995).
Theo tác giả Trần Kiểm và Bùi Minh Hiển, khái niệm quản lí giáo dục đối với cấp vĩ mô: “Quản lí giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động tự giác, có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật của chủ thể quản lí đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường” (Trần Kiểm và Bùi Minh Hiền, 2006).
Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, xác định mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục đào tạo giai đoạn 2011–2020: “Quản lí
giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lí tới khách thể quản lí nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn bằng hiệu quả cao nhất” (Nguyễn Đức Quang, 2013).
Từ đây, ta có thể khái quát QLGD là sự tác động có chủ đích, có căn cứ khoa học, hợp quy luật và phù hợp các điều kiện khách quan… của chủ thể quản lí tới đối tượng quản lí nhằm phát huy sức mạnh các nguồn lực giáo dục, từ đó đảm bảo các hoạt động của tổ chức/hệ thống giáo dục đạt được các mục tiêu giáo dục đã đề ra với chất lượng, hiệu quả cao nhất.
Nói cách khác, QLGD là sự tác động có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp của chủ thể QLGD lên đối tượng QLGD nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục đã đề ra.
Dựa vào phạm vi quản lí, người ta chia ra hai loại QLGD:
+ Quản lí hệ thống giáo dục: QLGD ở tầm vĩ mô, phạm vi toàn quốc, trên địa bàn lãnh thổ (tỉnh, thành phố…).
+ Quản lí nhà trường: QLGD ở tầm vi mô, trong phạm vi một cơ sở GD & ĐT.
c. Quản lí nhà trường
Nhà trường (Cơ sở Giáo dục & Đào tạo) là một cơ cấu tổ chức, cũng là một bộ phận cấu thành của một hệ thống giáo dục.
Công tác quản lí nhà trường chính là hoạt động QLGD của một cơ cấu, tổ chức giáo dục và đồng thời cũng là tác động quản lí trực tiếp tới mọi HĐGD - học tập trong phạm vi nhà trường. Trong nhà trường mọi hoạt động đều rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Vì thế việc quản lí, lãnh đạo phải thật sự nhạy bén, tư duy khoa học và đảm bảo sự đoàn kết, thống nhất từ mọi lực lượng, tạo nên sức mạnh một cách đồng bộ nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả vì mục đích giáo dục.
Quản lí nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới đạt mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh (Phạm Minh Hạc, 1998).
Quản lí nhà trường chính là sự tác động trong quản lí có chủ đích của hiệu trưởng (HT) tới tất cả các yếu tố, các mối quan hệ chức năng, và nguồn lực nhằm đưa mọi hoạt động trong nhà trường đạt đến mức phát triển cao nhất.
Trong giáo dục có nhiều cấp quản lí trường học: Cấp cao nhất là Bộ GD & ĐT, nơi quản lí nhà trường bằng các biện pháp quản lí hành chính vĩ mô. Có hai cấp trung gian quản lí trường học là Sở GD & ĐT ở tỉnh, thành phố và các Phòng GD & ĐT ở quận, huyện (thị xã). Cấp quản lí trực tiếp chính là sự tác động của HT quản lí các HĐGD, huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục nhà trường.
Mục đích của quản lí nhà trường là đưa nhà trường từ trạng thái hiện có từng bước đi lên một trạng thái phát triển mới bằng các biện pháp quản lí và phát triển chất lượng giáo dục của nhà trường.
1.2.2. Hoạt động dạy học môn Toán
a. Năng lực
Năng lực là một trong những vấn đề của tâm lý học có ý nghĩa lí luận và thực tiễn to lớn trong chiến lược xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của Đảng ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay.
Vậy năng lực là gì ?
Theo Thái Duy Tuyên: “Năng lực là những đặc điểm tâm lý của nhân cách, là điều kiện chủ quan để thực hiện có kết quả một dạng hoạt động nhất định. Năng lực có liên quan với kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo. Năng lực thể hiện ở tốc độ, chiều sâu, tính bền vững và phạm vi ảnh hưởng của kết quả hoạt động, ở tính sáng tạo, tính độc đáo của phương pháp hoạt động” (Thái Duy Tuyên, 2007).
Theo Nguyễn Cảnh Toàn: “Năng lực là những thuộc tính tâm lý của cá nhân giúp cho việc con người lĩnh hội một lĩnh vực kiến thức hoạt động nào đó được dễ dàng và nếu họ tiến hành hoạt động trong lĩnh vực đó thì sẽ có kết quả cao” (Nguyễn Cảnh Toàn, 1997).
Năng lực được hình thành, thể hiện và hoàn thiện trong mọi hoạt động. Ngay cả những năng lực rất yếu cũng có thể được phát triển, nâng cao bằng con đường kiên trì luyện tập một cách có hệ thống. Con người không phải ngay từ khi sinh ra đã có
những năng lực đối với một hoạt động nhất định. Năng lực chỉ có thể được phát hiện và nâng cao trong những hoàn cảnh thuận lợi”.
Theo Nguyễn Quang Uẩn: “Cùng với năng lực thì tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thích hợp cũng rất cần thiết cho việc thực hiện có kết quả một hoạt động. Có tri thức, kỹ năng, kỹ xảo trong một lĩnh vực nào đó là điều kiện cần thiết để có năng lực trong lĩnh vực này. Tri thức, kỹ năng, kỹ xảo không đồng nhất với năng lực, nhưng có mối quan hệ mật thiết với năng lực. Ngược lại, năng lực góp phần làm cho việc tiếp thu tri thức và hình thành kỹ năng, kỹ xảo tương ứng với lĩnh vực của năng lực đó được nhanh chóng và dễ hơn. Như vậy, giữa năng lực và tri thức, kỹ năng, kỹ xảo có sự thống nhất biện chứng nhưng không đồng nhất. Một người có năng lực trong một lĩnh vực này. Ngược lại, khi đã có tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thuộc lĩnh vực nào đó thì không nhất thiết sẽ có được năng lực về lĩnh vực đó” (Nguyễn Quang Uẩn, 2010).
Xuất phát từ mối quan hệ giữa năng lực, tri thức, kỹ năng và kỹ xảo, cho thấy: Việc dạy học môn Toán nhằm phát triển năng lực cho HS luôn gắn liền với việc truyền thụ hệ thống tri thức, kỹ năng và kỷ xảo tương ứng cho HS.
b. Hoạt động dạy học
HĐDH là hoạt động cơ bản, đặc thù của nhà trường phổ thông. Do vậy, quản lí các HĐDH cũng là nội dung quản lí cơ bản, quan trọng hàng đầu của quản lí nhà trường.
Theo tác giả Trần Thị Hương: “Hoạt động dạy học được hiểu là hoạt động phối hợp tương tác và thống nhất biện chứng giữa hoạt động chủ đạo của người dạy và hoạt động chủ động của người học nhằm thực hiện mục tiêu dạy học” (Trần Thị Hương, 2012).
Dạy học là sự tác động vào các giác quan và trí nhớ của người học: Cung cấp sự kiện, hình ảnh, tri thức để người học có cảm giác, hình thành các hình ảnh, tạo ra các kích thích để người học xác lập các mối liên tưởng; giúp người học ôn luyện, củng cố, khôi phục các mối liên tưởng… (Trần Thị Hương, 2012).
c. Hoạt động dạy học môn Toán
HĐDH môn Toán là hoạt động GV tổ chức, hướng dẫn, điều khiển HS tự mình chiếm lĩnh những kiến thức, kĩ năng cơ bản của Toán học và hình thành hoặc biến đổi