là 17-18%/năm. Trước yêu cầu phát triển ngành du lịch, năm 2002 chính phủ Campuchia đã khuyến khích tư nhân đầu tư vào ngành du lịch với 66 dự án, giá trị 2,2 tỷ USD, đầu tư nâng cấp 48 khách sạn với giá trị 624 triệu USD và 12 dự án nơi vui chơi giải trí phục vụ du lịch với giá trị hơn 1,6 tỷ USD. Năm 2008 giá trị các nguồn thu từ du lịch đạt 1,5 tỷ USD tăng 32,3% so với năm 2007, chủ yếu thu từ khách du lịch nước ngoài. Campuchia hy vọng du lịch sẽ đạt tỷ lệ tăng trưởng cao, tuy nhiên mức tăng đã giảm trong những năm gần đây.[20]
Du lịch phát triển, các ngành dịch vụ khác như thương mại dịch vụ, bưu chính viễn thông, giao thông cũng phát triển nhanh. Tính chung tốc độ tăng các dịch vụ này trong thời kỳ 2005 – 2010 tăng 8,4%/năm, năm 2010 – 2011 tăng 12%/năm. Tăng nhanh nhất là dịch vụ giao thông vận tải. Đối với đất nước Campuchia nghèo khổ, thì du lịch là một khu vực phát triển thành công nhất, có ấn tượng nhất và là yếu tố quyết định cho tiềm năng tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Campuchia là quốc gia thuộc tiểu vùng sông Mêkông (GMS), có thể liên kết hoạt động du lịch với các nước Việt Nam, Thái Lan, Lào và Myanma bằng đường bộ hoặc đường thuỷ qua biên giới hoặc bằng đường không. Campuchia một mặt thu hút đầu tư nước ngoài, mặt khác khuyến khích tư nhân phát triển du lịch, do đó đã ký các hiệp định phát triển du lịch với tổ chức du lịch quốc tế và hiệp định song phương với các quốc gia trên thế giới. Kể từ năm 1993 đến năm 1998, chính phủ Hoàng gia đã nâng cấp tuyến đường quốc lộ 1 (Phnôm Pênh - Svay Riêng), đường quốc lộ 2, đường quốc lộ 3 và đường quốc lộ 4 (là những tuyến đường huyết mạch từ thủ đô Phnôm Pênh đi tới các cảng biển), đường quốc lộ 5 (Phnôm Pênh-Batambăng)... Trong 5 năm từ 1997 đến 2002, chính phủ Hoàng gia Campuchia đã đầu tư 5 dự án cơ sở hạ tầng giao thông với số vốn hơn 62 triệu USD.
Việt Nam là quốc gia có tốc độ tăng trưởng cả về lượng khách, thu nhập từ du lịch vào loại cao hơn so với một số nước thuộc tiểu vùng sông Mêkông như Lào, Campuchia, Myanma. Tuy nhiên, do mức xuất phát điểm còn thấp, do đó kém hơn so với Thái Lan, Trung Quốc và một số quốc gia Đông Nam Á khác, tính chung cả năm 2011 ước đạt 6.014.032 lượt, tăng 19,1% so với năm 2010. Điểm yếu của ngành du lịch của Việt Nam là dịch vụ du lịch còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, giá cả không tương xứng với chất lượng, đang làm giảm khả năng cạnh tranh của ngành du lịch. So với những ngành kinh tế khác thì du lịch là ngành có tốc độ hội nhập nhanh, thể hiện qua lượng khách du lịch quốc tế tăng nhanh qua thời gian. Cả bốn hình thức kinh doanh du lịch, dịch vụ như cung cấp qua biên giới, tiêu dùng tại nước ngoài, hiện diện thương mại và di chuyển thể nhân đều được thực hiện trong ngành du lịch.[23]
Ngành du lịch Việt Nam đã có nhiều nỗ lực tranh thủ khai thác các nguồn bên ngoài, tăng cường hội nhập với khu vực và thế giới, thiết lập quan hệ và mở rộng hợp tác với nhiều tổ chức du lịch quốc tế, Hiệp hội du lịch Châu Á - Thái Bình Dương, Hiệp hội du lịch các nước ASEAN. Đặc biệt, Việt Nam đã tham gia tích cực vào chương trình phát triển du lịch tiểu vùng sông Mêkông, sông Hằng. Hiện tại Việt Nam đã có hơn 20 hiệp định song phương về du lịch, quan hệ với hơn 1.000 hãng du lịch của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ.
Khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam trong thời kỳ 2000 - 2011 mỗi năm khoảng 1,5 triệu lượt người. Khách nội địa cũng tăng nhanh, năm 2011 đạt 20 triệu lượt người tăng 5,6 lần so với năm 2000. Trong đó khác đến từ Campuchia năm 2011 tăng 166.3% so với năm 2010.
Bảng 2.4: Khách quốc tế đến Việt Nam năm 2011
Tháng 11/2011 | Ước tính tháng 12 2011 | Năm 2011 | Tháng 12/2011 so với tháng trước (%) | Tháng 12/2011 so với tháng 12/2010 | Năm 2011 so với năm 2010 | |
Tổng số | 611.864 | 593.408 | 6.014.032 | 97,0 | 132,0 | 119,1 |
Chia theo phương tiện đến | ||||||
Đường không | 514.094 | 493.908 | 5.031.586 | 96,1 | 135,3 | 123,9 |
Đường biển | 7.627 | 8.500 | 46.321 | 111,4 | 188,9 | 91,7 |
Đường bộ | 90.143 | 91.000 | 936.125 | 101,0 | 113,8 | 99,8 |
Chia theo mục đích chuyến đi | ||||||
Du lịch, nghỉ ngơi | 374.191 | 360.276 | 3.651.299 | 96,3 | 139,3 | 117,4 |
Đi công việc | 101.435 | 98.967 | 1.003.005 | 97,6 | 108,6 | 98,0 |
Thăm thân nhân | 98.889 | 99.388 | 1.007.267 | 100,5 | 184,6 | 175,5 |
Các mục đích khác | 37.349 | 34.777 | 352.460 | 93,1 | 75,7 | 103,1 |
Chia theo một số th trường | ||||||
Trung Quốc | 152.031 | 139.797 | 1.416.804 | 92,0 | 193,4 | 156,5 |
Hàn Quốc | 54.729 | 52.928 | 536.408 | 96,7 | 116,3 | 108,2 |
Nhật | 48.346 | 47.512 | 481.519 | 98,3 | 109,2 | 108,9 |
Mỹ | 35.166 | 43.402 | 439.872 | 123,4 | 122,0 | 102,1 |
Campuchia | 40.571 | 41.781 | 423.440 | 103,0 | 200,5 | 166,3 |
Đài Loan | 29.654 | 35.625 | 361.051 | 120,1 | 129,8 | 108,1 |
Úc | 25.596 | 28.591 | 289.762 | 111,7 | 106,7 | 104,2 |
Malaisia | 23.417 | 23.003 | 233.132 | 98,2 | 96,6 | 110,3 |
Pháp | 21.531 | 20.863 | 211.444 | 96,9 | 122,3 | 106,1 |
Thái Lan | 20.198 | 17.940 | 181.820 | 88,8 | 83,6 | 81,6 |
Các thị trường khác | 160.625 | 141.965 | 1.438.779 | 88,4 | 123,2 | 112,8 |
Có thể bạn quan tâm!
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Hoạch Định Chính Sách Thương Mại Việt Nam – Campuchia
- Xu Hướng Thương Mại Việt Nam Và Một Số Nước Trong Khu Vực Asean (Đv: Triệu Usd)
- Nhập Khẩu Hàng Hoá Từ Campuchia Vào Việt Nam Giai Đoạn 2007-2011
- Phạm Vi Thị Trường, Cơ Cấu Mặt Hàng Ngày Càng Mở Rộng
- Quan hệ thương mại Việt Nam - Campuchia sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) - 11
- Quan hệ thương mại Việt Nam - Campuchia sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) - 12
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
(Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam)
Đối với Việt Nam, trong số các hoạt động du lịch thì kinh doanh lữ hành quốc tế là một loại hoạt động có điều kiện, hạn chế cấp phép kinh doanh
lữ hành quốc tế đang là một rào cản. Tuy nhiên, những hạn chế này đang được ngành du lịch nghiên cứu, trình chính phủ tháo gỡ. Trên cơ sở Hiến pháp sửa đổi, chính phủ đã ra Nghị định 94/2003 NĐ - CP ngày 19 tháng 8 năm 2003, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch. Theo nghị định này có 6 thành phần kinh tế là nhà nước, tập thể, cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước và 100% nước ngoài đều có thể tham gia hoạt động du lịch. Tất cả 6 thành phần kinh tế đều có thể tham gia 4 hình thức hoạt động du lịch là kinh doanh lưu trú, kinh doanh lữ hành, kinh doanh vận chuyển quốc tế và kinh doanh các dịch vụ khác.
Khách du lịch quốc tế đến Campuchia và Việt Nam đang tăng nhanh. Cả hai quốc gia đều có danh lam thắng cảnh, di sản được xếp hạng là di sản thế giới. Thực tế cho thấy, doanh thu của ngành du lịch Việt Nam hàng năm tăng 14-18%/năm trong thời kỳ 2009-2011, đóng góp 5,4% GDP. Nhưng doanh thu chủ yếu từ khách du lịch nước ngoài. Trước tình hình đó, cần phải tổ chức các tuyến lữ hành du lịch qua biên giới hai nước bằng đường bộ, đường sông hoặc đường biển phục vụ khách nước ngoài. Đặc biệt là tuyến đường bộ qua cửa khẩu Mộc Bài - Tây Ninh, có thể tiếp nhập khách du lịch từ miền Trung vào Thành phố Hồ Chí Minh, qua biên giới Campuchia. Và ngược lại, từ khu đền Angkor, qua Phnôm Pênh qua biên giới về Việt Nam. Nhu cầu khách du lịch nội địa giữa hai nước sẽ tăng nhanh, bởi vì số người Việt Nam sinh sống, hoạt động kinh tế ở Campuchia và số người Khơmer sống ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ khá đông. Hợp tác phát triển du lịch thúc đẩy hợp tác văn hóa, hợp tác thương mại, đầu tư phát triển, củng cố tình hữu nghị giữa các dân tộc.
Ngoài du lịch, một số loại dịch vụ khác còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ, như dịch vụ bảo hiểm chỉ chiếm 1,1%, dịch vụ bưu chính viễn thông chiếm tỷ trọng 1,7%, dịch vụ tài chính chỉ chiếm 5,5%...
Để khắc phục hạn chế cũng như phát triển xuất khẩu dịch vụ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong quan hệ thương mại song phương Việt Nam – Campuchia thì chiến lược xuất khẩu dịch vụ giai đoạn 2011 - 2020 của nhà nước ta phải được triển khai tới từng ngành, phân đoạn bước đi trọng tâm trong mỗi năm. Từ đó rà soát, sửa đổi bổ sung cơ chế, chính sách thuế, đầu tư, thế chấp, tín dụng... theo hướng khuyến khích việc tích tụ và tập trung mọi nguồn lực xã hội đầu tư cho dịch vụ, vừa phù hợp với các định chế quốc tế vừa thích hợp với thực trạng của Việt Nam. Chấn chỉnh công tác hạch toán - thống kê dịch vụ theo chuẩn quốc tế. Tiếp tục cải cách hành chính trong quản lý, thủ tục kiểm tra trên đường hành trình, quá cảnh tại cửa khẩu, nơi lưu trú. Bên cạnh đó, cần khẩn trương xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho dịch vụ, trước hết là đường sá, điện lực, viễn thông, trong đó các trung tâm kinh tế lớn đi đầu làm khuôn mẫu cho các địa phương khác. Cơ sở xây mới phải đạt trình độ khu vực, quốc tế từ quy mô đến trang bị kỹ thuật, bộ máy vận hành, để các tổ chức và cá nhân nước ngoài đến Việt Nam có thể dùng dịch vụ của Việt Nam. Cần kết hợp xúc tiến của các ngành dịch vụ với xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư để nâng cao năng lực và hiệu quả tiếp thị các nhu cầu dịch vụ từ nước ngoài. Xây dựng được mạng lưới tai mắt về nhu cầu dịch vụ thông qua các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài cùng kiều bào ta để nhận được những gói thầu chính, hợp đồng gốc... Mặt khác, cần đầu tư mạnh cho đào tạo và tuyển dụng nguồn lực cho xuất khẩu lao động, đáp ứng được yêu cầu nhân lực chất lượng cao của những nền kinh tế phát triển và cả lao động phổ thông. Tổ chức và khai thác tốt thị trường khách du lịch quốc tế,
chú trọng các nguồn khách du lịch có thu nhập cao đến từ các nền kinh tế mạnh và thu hút cả nguồn khách thu nhập bình dân nhưng số lượng đông. Ngoài ra, cần nhanh chóng quốc tế hóa và xã hội hóa đào tạo nguồn lực để có nhân lực kỹ thuật tiên tiến.
Tất cả những việc làm nói trên đều nhằm thực hiện mục tiêu xuất khẩu dịch vụ giai đoạn 2011 - 2020 đạt tốc độ tăng bình quân 20,3%/năm, đạt 50 tỷ USD vào năm 2020, tạo nền móng cho tăng trưởng nhanh và bền vững trong giai đoạn tiếp theo.
2.3 Đánh giá chung quan hệ thương mại Việt Nam-Campuchia
2.3.1 Một số thành tựu đạt được
2.3.1.1 Giá trị kim ngạch xuất khẩu có xu hướng tăng
Nhìn chung trong gần 10 năm trở lại đây, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam nói riêng và quan hệ thương mại giữa hai nước Việt Nam - Campuchia nói chung đã đạt được những bước tiến đáng ghi nhận. Trong giai đoạn từ 2001 – 2005 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Campuchia tăng tương đối nhanh (kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Campuchia tăng 5 lần trong vòng 5 năm).
(Đơn vị: triệu USD)
Biểu đồ 2.7: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá Việt Nam sang Campuchia giai đoạn 2007-2011
(Nguồn:Cục Công nghệ Thông tin và Thống kê Hải quan, Tổng cục Hải quan Việt Nam)
Đặc biệt trong giai đoạn từ năm 2007 đến 2011, kim ngạch xuất khẩu đã lên đến trên 1 tỷ USD, khẳng định rò hai nước chính là đối tác thương mại quan trọng của nhau. Việt Nam luôn xuất siêu sang Campuchia trong vòng 5 năm trở lại đây. Chỉ có năm 2009, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nên xuất khẩu của Việt Nam sang Campuchia có phần hạn chế . Tuy nhiên trong 2 năm gần đây, khi nền kinh tế thế giới dần phục hồi thì Việt Nam đang là quốc gia xuất khẩu lớn nhất sang Campuchia, vượt qua cả Thái Lan và Trung Quốc. Đây là một tín hiệu đáng mừng thể hiện tiềm lực thương mại của hai nước và cần được phát huy trong thời gian tới.
Bảng 2.5: Tốc độ gia tăng thương mại Việt Nam- Campuchia giai đoạn 2000-2011
(Đơn vị: triệu USD)
Xuất khẩu | Tốc độ tăng (%) | Nhập khẩu | Tốc độ tăng (%) | Tổng kim ngạch | Tốc độ tăng (%) | |
2000 | 141,6 | -- | 37,3 | -- | 178,9 | -- |
2001 | 146,0 | 3,1 | 38,0 | 1,8 | 184 | 2,8 |
2002 | 178,4 | 22,2 | 65,4 | 72,1 | 243,8 | 32,5 |
2003 | 267,3 | 49,8 | 94,7 | 44,8 | 362 | 48,5 |
2004 | 348,6 | 30,4 | 130,4 | 37,7 | 479 | 32,3 |
2005 | 536 | 53,7 | 156,6 | 20,1 | 692,6 | 44,6 |
2006 | 765,1 | 42,7 | 169,45 | 8,2 | 934,55 | 34,9 |
2007 | 990,8 | 29,5 | 202,26 | 19,36 | 1.193,06 | 27,6 |
2008 | 1.430,656 | 44,4 | 209,97 | 3,8 | 1.640,626 | 37,5 |
2009 | 1.146,930 | -19,9 | 186,23 | - 11,3 | 1.333,16 | - 18,7 |
2010 | 1.552 | 35,3 | 277 | 48,74 | 1829 | 37,2 |
2011 | 2.373 | 52,9 | 446,2 | 61,1 | 2819,2 | 54,1 |
(Nguồn:Cục Công nghệ thông tin và Thống kê Hải quan, Tổng cục Hải quan Việt Nam)
Cơ cấu hàng hóa đang trao đổi giữa hai nước mang tính chất bổ sung cho nhau. Xét trong điều kiện tự cung tự cấp, mỗi nước tự sản xuất hai mặt hàng để tiêu dùng trong nước. Những mặt hàng mặt hàng lâm sản – đặc biệt là mặt hàng cao su là mặt hàng lợi thế của Campuchia vì đất nước Campuchia có diện tích rừng rộng và khí hậu rất thuận lợi cho ngành lâm nghiệp. Ngoài ra, chi phí nhân công cũng thấp vì thế các mặt hàng trên có giá thành dễ chấp nhận. Tuy nhiên, những mặt hàng này sẽ dần biến mất trong cơ cấu nhập khẩu theo xu hướng chung của nền sản xuất hiện đại là ngày càng phụ thuộc ít hơn vào sản phẩm tự nhiên. Hơn nữa, đây toàn là mặt hàng mà Việt Nam có thể tự