Vị Trí Địa Lý Và Điều Kiện Tự Nhiên Của Myanmar


trong một khoảng thời gian nhất định. Chủ đầu tư có thể là các ngân hàng, các tổ chức tín dụng (tín dụng quốc tế của các ngân hàng) hoặc nhà cung cấp (tín dụng thương mại) hoặc các đối tượng khác.

Đầu tư phi tư nhân quốc tế: Đầu tư phi tư nhân quốc tế là hình thức đầu tư trong đó chủ đầu tư là các chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức phi chính phủ. Dòng vốn đầu tư này thường tồn tại dưới hình thức các dòng vốn hỗ trợ.

- Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): Vốn ODA là các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi của các Chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc (UN), các tổ chức tài chính quốc tế dành cho các nước đang và chậm phát triển.

- Hỗ trợ chính thức (OA): OA có những đặc điểm gần giống như ODA. Điểm khác nhau là đối tượng tiếp nhận đầu tư, đối với ODA chỉ có các nước đang và kém phát triển được nhận hình thức đầu tư này, còn OA có thể đầu tư cho cả một số nước có thu nhập cao ví dụ như Isra l, N w Cal donia,...

d) Tác động của đầu tư quốc tế đối với nước nhận đầu tư

Nước nhận đầu tư là nước phát triển:

- Góp phần tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, năng lực công nghệ hiện đại của nền kinh tế. Với việc phát triển của công nghệ kỹ thuật thì yêu cầu về vốn ngày càng cần thiết ngay cả đối với những nước phát triển rất lớn như Mỹ hay EU thì vẫn phải hợp tác với nhau trong nhiều lĩnh vực để thu hút đầu tư nước ngoài.

- Góp phần giải quyết được những khó khăn về kinh tế xã hội như việc làm, tăng thu ngân sách.

- Tạo ra được môi trường cạnh tranh từ đó thúc đẩy sự đổi mới công nghệ, phát triển kinh tế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

- Có thị trường để tiêu thụ sản phẩm.

o Nước nhận đầu tư là nước đang phát triển.

Quan hệ thương mại, đầu tư Việt Nam - Myanmar - Thực trạng và giải pháp - 4

o Giải quyết vấn đề thiếu vốn để phát triển nền kinh tế. Với các nước đang phát triển thì có một thuyết là thuyết “Vòng luẩn quẩn”: Năng suất rất thấp thì


sẽ dẫn đến thu nhập thấp, từ đó dẫn tới tích lũy thấp và tất nhiên là tiết kiệm và đầu tư thấp (vốn đầu tư thấp) từ đó lại dẫn tới năng suất thấp

o Phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế th o hướng công nghiệp hóa. Trước chiến tranh thế giới thứ II, chủ yếu đầu tư đổ vào các ngành khai thác tài nguyên. Nhưng sau chiến tranh đầu tư vào các ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ gia tăng.

o Tạo việc làm, nâng cao thu nhập người lao động và phát triển nguồn nhân lực.

o Phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập quốc dân và tăng thu ngân

sách. ngoài.


o Tiếp nhận công nghệ mới, kỹ năng – kinh nghiệm quản lý của nước


o Phát triển và mở rộng các hình thức kinh tế đối ngoại khác, đặc biệt

là thương mại quốc tế.

o Giúp các nước hiện đại hóa cơ sở hạ tầng.

o Tuy nhiên bên cạnh đó, nước nhận đầu tư cũng bị ảnh hưởng bởi các tác động tiêu cực như:

- Các nước đang phát triển rất dễ rơi vào tình trạng nợ nần chồng chất.

Điểm này được thể hiện rất rõ ở hình thức đầu tư gián tiếp (ODA).

- Nước nhận đầu tư dễ rơi vào tình trạng phụ thuộc. Sự phụ thuộc được thể hiện trên nhiều cấp độ như phụ thuộc về vốn (khi dòng vốn đầu tư nước ngoài bị rút nhanh thì sẽ gây ra tác động nghiêm trọng tới nền kinh tế) từ phụ thuộc về vốn dễ dẫn tới phụ thuộc kinh tế (thị trường tiêu thụ sản phẩm) và có thể dẫn tới phụ thuộc về chính trị.

- Nước nhận đầu tư phải chia xẻ lợi ích quyền lợi.

- Nền kinh tế có thể rơi vào tình trạng phát triển lệch lạc, mất cân đối. Sự mất cân đối thể hiện về mất cân đối cơ cấu ngành cũng như mất cân đối về cơ cấu lãnh thổ.

- Nước nhận đầu tư có thể trở thành bãi rác thải công nghệ. Việc tiếp nhận những dây chuyền công nghệ của nhà đầu tư nước ngoài là một vấn đề do vậy


phải so sánh các mặt lợi, hại khi tiếp nhận dự án đầu tư, thu hút đầu tư vào các khu vực công nghệ cao, hoặc thu hút vào lĩnh vực sử dụng nhiều lao động là hai mục tiêu khác nhau. Dự án sử dụng nhiều lao động thì khả năng công nghệ áp dụng vào đó là công nghệ lạc hậu, nhưng dự án đầu tư vào khu vực công nghệ cao thì sẽ được sử dụng công nghệ cao do vậy Chính phủ phải cân nhắc kỹ càng trước khi chấp thuận cho các dự án đầu tư vào đất nước.

- Tác động khác như đình công, sa thải nhân công, chảy máu chất xám, lối sống xã hội v.v….

Trong phạm vi nghiên cứu đề tài của tác giả, tác giả chỉ nghiên cứu về quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài, mà không nghiên cứu các mối quan hệ đầu tư gián tiếp hay các mối quan hệ đầu tư khác giữa hai nước Việt Nam và Myanmar.

1.2. Giới thiệu về đất nước Myanamar

1.2.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của Myanmar

Myanmar có tên nước chính thức: Liên bang Myanmar, tên tiếng Anh là The Union of Myanmar. Từ tháng 1 năm 2006, Myanmar chọn Thủ đô là Nay Pyi Taw, thời gian trước đó Thủ đô của Myanmar là Yangon (VCCI, 2016).

Về vị trí địa lý, Myanmar nằm trong khu vực Đông Nam Á, là một đất nước rộng lớn với tổng diện tích là 676.578km2, lớn thứ 40 trên thế giới. Phía Bắc và Đông Bắc của Myanmar giáp Trung Quốc; phía Đông giáp Lào; phía Đông Nam giáp Thái Lan; phía Nam trông ra vịnh Belgan và biển Andaman thuộc Ấn Độ Dương; phía Tây giáp Ấn Độ và Bangladesh. Có thể nhận thấy Myanmar vừa nằm trong khu vực Đông Nam Á và đồng thời tiếp giáp với khu vực Tây Nam Á, có đường biên giới chung với hai đất nước có dân số đông nhất thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ, phía Đông Nam thì giáp Thái Lan – một đất nước có nền kinh tế năng động, là một vị trí rất đắc địa và là vị trí mà các nhà đầu tư sẽ nghĩ đến đầu tiên khi lựa chọn đặt nhà máy sản xuất (VCCI, 2013)

Không chỉ có vị trí địa lý thuận lợi, đất nước Myanmar còn được thiên nhiên ban tặng nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú. Với bờ biển dài 2.276km chạy dọc theo Vịnh Bengal và Biển Andaman, nằm trong khu vực không thường xuyên phải hứng chịu các cơn bão biển là điều kiện lý tưởng để Myanmar


tận dụng và phát triển kinh tế biển mạnh mẽ. Myanmar có khí hậu nhiệt đới gió mùa nên có hệ sinh thái động thực vật đa dạng. Động vật ở Myanmar đa dạng về chủng loại, phong phú về giống loài từ trên cạn đến dưới nước, từ trên trời đến các loại sống trong rừng, ở môi trường nào cũng rất nhiều loài động vật sinh sống. Rừng rậm ở Myanmar là nơi sinh sống của rất nhiều loài động vật quý hiếm như tê giác, trâu rừng, lợn lòi, hươu, linh dương, voi và các loại động vật có vú nhỏ như vượn, khỉ, cáo bay và heo vòi. Số lượng các loài chim ở Myanmar cũng vô cùng đa dạng, lên tới hơn 800 loài như vẹt, gà lôi, quạ, diệc và gõ kiến; cùng hàng trăm nghìn loài cá nước ngọt, rất phong phú và là nguồn thực phẩm quan trọng trong đời sống của người dân Myanmar (Goldenlotus Travel, 2017).

Thảm thực vật ở Myanmar cũng được đánh giá cao. Rừng nhiệt đới của Myanmar có diện tích lớn, bao phủ 49% diện tích đất nước, trong rừng chứa nhiều loại cây có giá trị kinh tế và đáp ứng nhiều mục đích sự dụng như gỗ Tếch, lim, sồi, thông, …. Vùng ven biển của Myanmar gồm rất nhiều loại cây ăn trái nhiệt đới có giá trị xuất khẩu, thêm vào đó diện tích đất nông nghiệp ở Myanmar cũng rất trù phú, giàu dinh dưỡng cũng là điều kiện tốt để Myanmar phát triển nông nghiệp. (VCCI, 2013)

Nhắc đến điều kiện tự nhiên ở Myanmar, ngoài đất đai, động thực vật, không thể không nhắc đến nguồn tài nguyên khoáng sản. Theo Hồ sơ thị trường Myanmar của VCCI năm 2013, Myanmar cũng sở hữu các nguồn tài nguyên có giá trị kinh tế lớn với trữ lượng đều xếp thứ hạng cao trên thế giới. Trữ lượng dầu mỏ của Myanmar khoảng 3,2 tỷ thùng và trữ lượng khí đốt ước tính 89,7 nghìn tỷ m3 xếp thứ 10 thế giới, thêm nữa Myanmar còn có trữ lượng ngọc, đá quý, đồng, niken, vonfram, granit, vàng, bạc... thuộc hàng lớn nhất trên thế giới. Các nguồn tài nguyên mà Myanmar đang sở hữu là nguồn tài nguyên mà bất kỳ đất nước nào cũng mong muốn (VCCI, 2013)

Đất nước Myanmar được đánh giá là đang sở hữu những điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế hơn Trung Quốc và Việt Nam trước đây khá nhiều theo tác giả Nhàn Đàm của website Báo mới, 2015 nhận xét. Myanmar nằm ở vị trí địa lý lợi thế, được thiên nhiên ban tặng nguồn tài nguyên khoáng sản giàu có giúp Myanmar


có thể phát triển kinh tế một cách toàn diện, từ nông nghiệp, công nghiệp đến du lịch và dịch vụ trong tương lai.

1.2.2. Điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Myanmar

Về kinh tế, trước năm 2011 Myanmar là nằm trong nhóm những nước nghèo nhất thế giới với hàng thập kỷ ở trong tình trạng trì trệ, quản lý kém và bị cô lập. Sau đó, tháng 5 năm 2011 Chính phủ Myanmar đã quyết định mở cửa nền kinh tế để phát triển đất nước, Mynamar cũng đang dần hòa nhập vào kinh tế toàn cầu. Chính phủ Myanmar đã đề ra 4 chính sách kinh tế lớn bao gồm: Duy trì phát triển nông nghiệp hướng tới công nghiệp hóa và phát triển toàn diện; phát triển cân bằng và cân đối giữa các bang/ khu vực; tăng trưởng công bằng trong toàn bộ dân cư; và nâng cao chất lượng thống kê để phát triển kinh tế và xây dựng quốc gia dân chủ toàn diện nhằm phát triển kinh tế toàn diện. Trong ngắn hạn, Chính phủ Myanmar tập trung vào 10 lĩnh vực: tài chính và thu nhập, dỡ bỏ các hạn chế về đầu tư nước ngoài và thương mại, phát triển khu vực tư nhân, giáo dục và y tế, an ninh lương thực và phát triển nông nghiệp, minh bạch hóa chính phủ, hệ thống int rn t, điện thoại di động và phát triển cơ sở hạ tầng cơ bản. Còn về dài hạn, Myanmar sẽ tập trung vào các lĩnh vực: cải cách đất đai, cải thiện tiếp cận tín dụng và cơ hội việc làm (Bộ Ngoại Giao Việt Nam, 2017). Kể từ khi ban hành các chính sách trên đến nay, nền kinh tế Myanmar đã đạt liên tục đạt mức tăng trưởng cao, trở thành đất nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế ấn tượng không chỉ trong khu vực Đông Nam Á mà còn trong toàn Châu Á.

Th o Trad Solution, năm 2016 Myanmar đã có hoạt động xuất nhập khẩu với 167 nước trên thế giới, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Myanmar đạt 27,369 tỷ USD trong đó trị giá xuất khẩu 11,673 tỷ USD, trị giá nhập khẩu 15,696 tỷ USD. Các mặt hàng xuất khẩu đạt giá trị cao của Myanmar chủ yếu là tài nguyên và sản phẩm nông nghiệp như: dầu mỏ, các loại hạt, đường mía thô, khoáng sản, gạo; đồng thời Myanmar cũng nhập khẩu một lượng lớn giá trị các mặt hàng: dầu mỏ thành phẩm và các sản phẩm từ dầu mỏ, đường tinh, xe tải, dầu thực vật, x máy. Các đối tác thương mại lớn của Myanmar là Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ, Singapore, Nhật Bản, trong đó kim ngạch xuất nhập khẩu của Myanmar với Trung Quốc là lớn nhất


chiếm tới 37,16% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Myanmar, tiếp th o sau đó là Thái Lan 15,44%, Singapore 11,5% (xem Phụ lục 2) (Trade Solution, 2016)

Theo các số liệu thống kê của WB, tăng trưởng kinh tế của Myanmar liên tiếp ở mức cao so với khu vực và thế giới. Cụ thể năm 2012 tăng trưởng kinh tế Myanmar đạt 7,3%; năm 2013 là 8,5%; năm 2014 là 8%; năm 2015 là 7,3%; năm 2016 là 6,5%; năm 2017 dự báo là 6,9% và năm 2018 mức tăng trưởng kinh tế có thể đạt 7,2%. Không chỉ có tăng trưởng kinh tế mà thu nhập bình quân đầu người của Myanmar cũng tăng lên đáng kể. Cụ thể năm 2012 thu nhập bình quân đầu người của Myanmar là 1101,2USD/người, nhưng đến năm 2016 mức thu nhập bình quân đầu người của Myanmar đã tăng lên 1420,5USD/người, tăng 28,99% sau 5 năm (IMF, 2017). Những số liệu này cho thấy, kinh tế Myanmar đang phát triển mạnh mẽ từng ngày và việc đẩy mạnh quan hệ thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và Myanmar sẽ gặp nhiều thuận lợi trong thời gian tới.

Về chính trị, từ khi giành độc lập (năm 1948) đến năm 1962 Myanmar là Nhà nước liên bang theo chế độ Dân chủ Đại nghị. Từ năm 1962 đến năm 2009, tình hình chính trị bất ổn do sự cạnh tranh của các đảng phái chính trị. Sự độc tài của chính quyền đã khiến Mỹ và EU cấm vận quốc gia này từ năm 1988. Myanmar từ một quốc gia giàu có bậc nhất khu vực Đông Nam Á dần chìm vào nền kinh tế nghèo nàn, tụt hậu so với các nước trong khu vực do không có điều kiện giao lưu, buôn bán với các nước phát triển, nền kinh tế chủ yếu tự cung tự cấp. Đến năm 2009, Mỹ và EU dần dần gỡ bỏ lệnh cấm vận đối với nước này, tình hình chính trị giữa các đảng phái cũng bớt căng thẳng hơn, Myanmar bắt đầu mở cửa để phát triển kinh tế quốc gia và thoát khỏi giai đoạn cô lập trong gần nửa thế kỷ. Năm 2010, sau cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên sau 20 năm bị cấm vận. Cuộc bầu cử này chứng tỏ quyết tâm cải cách thực chất của chính quyền Myanmar, qua đó xóa bỏ mọi nghi ngại của phương Tây để tiến tới nới lỏng hoặc dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận kinh tế áp đặt lâu nay, giúp Myanmar đẩy nhanh mở cửa kinh tế, thu hút đầu tư, phát triển đất nước (Nguyễn Thị Thanh Thủy,2013). Tiếp đó vào năm 2015, bà Aung San Suu Kyi lãnh đạo Đảng Liên đoàn quốc gia vì dân chủ Myanmar (NLD) đã có được chiến thắng lịch sử trong cuộc bầu cử của Myanmar. Bà đã có nhiều chính sách,


giúp phát triển nền dân chủ và khôi phục lại kinh tế Myanmar một cách mạnh mẽ. Và năm 2016, thì Mỹ đã dỡ bỏ lệnh cấm vận với Myanmar, và điều này đã có tác động tích cực đến nền kinh tế Myanmar, nền kinh tế Myanmar gần như được cởi trói hoàn toàn. Theo dự báo của ADB kinh tế Myanmar sẽ đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 9,5% vào năm 2030, thu nhập bình quân đầu người của Myanmar cũng sẽ tăng từ mức 1400 USD hiện nay lên gần 5.000 USD trong năm 2030. Chính trị của Myanmar dần đi vào ổn định cũng là khiến các đối tác trên thế giới yên tâm hơn khi tham gia hoạt động thương mại, đầu tư vào Myanmar (ADB, 2018)

Về văn hóa, Myanmar có dân số vào khoảng 55,123,814 người (CIA, The World Factbook, 2017) với 135 dân tộc và bộ tộc, đông nhất là người Burman (68%), Shan(9%), Rakhine (4%), Trung Quốc (3%), Ấn Độ (2%), Mon(2%) và các dân tộc khác chiếm 5% (VCCI, 2016). Dân số của Myanmar chỉ xấp xỉ 57% dân số Việt Nam (dân số Việt Nam khoảng hơn 96 triệu người theo CIA, The World Factbook, 2017) nhưng Myanmar có 135 dân tộc sinh sống, gấp 2,5 lần Việt Nam, nhiều dân tộc cùng sinh sống đã tạo nên một đất nước Myanmar với văn hóa đa dạng nhưng cũng thể hiện sự phức tạp. Mỗi dân tộc sinh sống trên đất nước Myanmar mang một đặc trưng riêng biểu hiện qua ngôn ngữ, ẩm thực, âm nhạc, ca múa và sân khấu, nghệ thuật. Nếu du lịch đến Myanmar, chúng ta sẽ có thể được trông thấy sự phong phú trong văn hóa của đất nước này. Người Myanmar phần lớn theo Phật Giáo nên tính cách đa số hiền hòa, thật thà. Hơn nữa người dân Myanmar th o Đạo Phật thường có những khóa tu tại chùa kéo dài ít nhất 3 tháng nhiều nhất là 3 năm, sau các khóa tu này con người giác ngộ hơn, sống lương thiện hơn. Sự đa dạng, đặc sắc về văn hóa của Myanmar cũng được coi là ưu điểm để Myanmar phát triển ngành du lịch góp phần vào phát triển kinh tế đất nước.

Về xã hội, cũng chính từ lý do Myanmar có 135 dân tộc cùng sinh sống nên tình trạng xung đột sắc tộc thường xuyên xảy ra. Một trong những cuộc xung đột gây ảnh hưởng sự ổn định xã hội Myanmar đó là cuộc xung đột tôn giáo – sắc tộc giữa những người theo Phật giáo chiếm đa số với cộng đồng người Rohingya thiểu số th o Đạo Hồi ở Myanmar. Hậu quả của các cuộc xung đột sắc tộc ở Myanmar là


làm cho cuộc sống của những người dân khu vực đấy bị ảnh hưởng rất nhiều, nhiều người dân bị thương vong, trong đó một số khác thì phải thường xuyên phải chạy lánh nạn sang các nước khác như Banglad sh. Hiện tại thì Chính phủ Myanmar cũng bắt đầu có những biện pháp về an ninh xã hội, nhằm hạn chế những xung đột sắc tộc nội bộ để ổn định và phát triển kinh tế.

Có thể nhận thấy Myanmar sở hữu đầy đủ các yếu tố cần thiết để phát triển kinh tế toàn diện: vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên đa dạng, có trữ lượng cao, dân số đông. Việt Nam

1.3. Quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Myanmar

1.3.1. Quá trình hình thành và phát triển quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Myanmar

Myanmar và Việt Nam đã thiết lập quan hệ nhiều thập kỷ qua. Năm 1947, Việt Nam đã đặt cơ quan thường trú tại Yangon. Trong những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX, quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Myanmar không đáng kể do khó khăn của cả hai bên. Sau khi Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải thăm chính thức Myanmar (tháng 5/2000), quan hệ thương mại giữa hai nước mới thực sự được triển khai. (Nguyễn Vĩnh, 2012)

Các nhà lãnh đạo hai nước đã tổ chức nhiều cuộc họp, nhiều cuộc viếng thăm và ký kết nhiều Biên bản ghi nhớ, hiệp định mục đích là để tìm hướng phát triển kinh tế cho cả hai đất nước. Ngày 06 tháng 05 năm 2002 tại Myanmar, hai nước đã ký Biên bản ghi nhớ thành lập Uỷ ban hỗn hợp Thương mại Việt Nam – Myanmar. Từ đó đến nay, Ủy ban hỗn hợp Thương Mại Việt Nam – Myanmar đã tổ chức 9 kỳ họp, mỗi kỳ họp đều đưa ra các nội dung nhằm tháo gỡ khó khăn và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp hai nước. Tiếp đó vào tháng 11 năm 2007, thủ Thủ tướng Myanmar khi đó là Thein Sein đã có chuyến thăm chính thức Việt Nam, khi tiếp đón các nhà lãnh đạo Myanmar, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã rất nhiệt tình chia sẻ các kinh nghiệm về cải cách đất nước và phát triển kinh tế, hy vọng Myanmar sớm ổn định để tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ hợp tác hai nước tiếp tục phát triển. Đến tháng 10 năm 2009, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có chuyến thăm chính thức Myanmar lần đầu tiên. Các nhà lãnh đạo hai nước đã thống nhất

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 27/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí