116
Do đó, cần tạo ra cơ chế phân phối lợi ích hài hòa cho các chủ thể, đảm bảo sự đồng thuận và thống nhất lợi ích với nhau. Cụ thể: thông qua việc định hướng, hỗ trợ xây dựng chuỗi liên kết từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ hàng nông sản hữu cơ, cần kiểm soát và nâng cao chất lượng nông sản hữu cơ, đáp ứng nhu cầu của thị trường và ổn định khâu tiêu thụ. Từ đó, đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho các chủ thể. Nhằm thúc đẩy phát triển hợp tác, liên kết nông nghiệp, những năm qua, ngành nông nghiệp Hà Nội luôn khuyến khích và tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp, cơ sở, hợp tác xã sản xuất theo chuỗi liên kết, đồng thời đề xuất Thành phố có thêm chính sách hỗ trợ phù hợp với thực tế sản xuất, tiêu thụ sản phẩm NNHC trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Ba là, hài hòa quan hệ lợi ích giữa các chủ thể trong phát triển nông nghiệp hữu cơ trên cơ sở đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia sản xuất, kinh doanh nông nghiệp hữu cơ.
Điều này rất quan trọng, tác động trực tiếp đến động lực tham gia phát triển NNHC của các chủ thể. Do đó, hài hòa quan hệ lợi ích giữa các chủ thể trong phát triển nông nghiệp hữu cơ cần dựa trên cơ sở đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia sản xuất, kinh doanh NNHC. Nói cách khác, chính là đảm bảo tôn trọng các quy luật của thị trường, dựa trên cơ sở pháp luật của Nhà nước về phát triển nông nghiệp hữu cơ, với một thể chế rõ ràng về quyền và trách nhiệm của các chủ thể trong mối liên kết tạo cơ sở đảm bảo hài hòa quan hệ lợi ích giữa các chủ thể.
Các chủ thể tham gia phát triển NNHC có những quyền sau: Một là, quyền được hợp tác, liên kết trong những lĩnh vực, ngành nghề sản xuất nông nghiệp mà pháp luật không cấm; Hai là, được hưởng các chính sách khuyến khích liên kết gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và các chính sách hỗ trợ, ưu đãi khác của Nhà nước theo quy định; Ba là, được sử dụng tài sản đầu tư trên đất và tài sản hình thành từ vốn vay để thế chấp vay vốn tại các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật; Bốn là, được cung cấp thông tin
117
về chính sách hỗ trợ liên kết của Nhà nước, giá cả thị trường, tiêu chuẩn chất lượng, khoa học kỹ thuật, công nghệ và các dịch vụ công ích khác phục vụ liên kết; Năm là, được lựa chọn phương thức phù hợp để giải quyết tranh chấp phát sinh trong thực hiện hợp đồng, dự án liên kết theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia phát triển NNHC chính là: Một là, tuân thủ các quy định của Nhà nước về sản xuất và tiêu thụ nông sản hữu cơ và bảo vệ môi trường sức khỏe con người, cây trồng... trong quá trình thực hiện liên kết; Hai là, đảm bảo đúng quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia phát triển NNHC theo quy định của pháp luật; Ba là, các chủ thể tham gia sản xuất, kinh doanh NNHC có nghĩa vụ trao đổi, thương lượng và thống nhất giải quyết nhằm chia sẻ những khó khăn và rủi ro bất khả kháng trong quá trình hợp tác với nhau.
Có thể bạn quan tâm!
- Tỷ Lệ Quan Tâm Của Người Tiêu Dùng Khi Lựa Chọn Hàng Nông Sản Hữu Cơ
- Đánh Giá Chung Về Quan Hệ Lợi Ích Trong Phát Triển Nông Nghiệp Hữu Cơ Ở Thành Phố Hà Nội
- Xu Hướng Phát Triển Nông Nghiệp Hữu Cơ Và Quan Điểm Hài Hòa Quan Hệ Lợi Ích Trong Phát Triển Nông Nghiệp Hữu Cơ Trên Địa Bàn Thành Phố Hà Nội Đến
- Xây Dựng, Hoàn Thiện Các Chính Sách Thu Hút Đầu Tư Trong Và Ngoài Nước Vào Phát Triển Nông Nghiệp Hữu Cơ
- Nâng Cao Nhận Thức Của Các Chủ Thể Về Nông Nghiệp Hữu Cơ
- Quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn Thành phố Hà Nội - 19
Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.
Để hài hòa lợi ích trong phát triển NNHC thì Nhà nước đóng vai trò quan trọng nhất, vừa định hướng chính sách cho các loại hình dịch vụ phát triển, thu hút sự đầu tư của các chủ thể sản xuất, kinh doanh hàng nông sản hữu cơ, đồng thời hài hòa lợi ích giữa các chủ thể trong sản xuất - tiêu thụ - tiêu dùng sản phẩm NNHC.
Phát triển NNHC là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với ngành nông nghiệp của Thành phố Hà Nội, là một bộ phận hữu cơ trong quá trình phát triển bền vững kinh tế - xã hội của Thủ đô. Do đó, để hài hòa quan hệ lợi ích trong phát triển NNHC hiện nay đòi hỏi phải có sự đồng thuận và nỗ lực to lớn của các cấp, các ngành của Thành phố. Chính quyền các cấp tiếp tục phát huy và giữ vai trò định hướng, hỗ trợ, tạo môi trường đầu tư thuận lợi thông qua việc ban hành và thực hiện tốt các cơ chế, chính sách để khuyến khích, thu hút các doanh nghiệp.
Bốn là, phát triển nông nghiệp hữu cơ kết hợp ch t chẽ với hoàn thành các chương trình mục tiêu về xây dựng nông thôn mới.
Phát triển NNHC ở Hà Nội đã và đang hình thành các trung tâm sản xuất lớn, chủ yếu thuộc các huyện ngoại thành Hà Nội, nơi đang đẩy mạnh
118
thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, mà cốt lõi là thay đổi và nâng cao năng lực sản xuất kinh tế của người dân, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, cải thiện mọi mặt nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại, có môi trường tự nhiên bền vững, đồng thời vẫn giữ gìn được những nét bản sắc tốt đẹp của người dân mỗi địa phương. Những mục tiêu của nông thôn mới có nhiều điểm tương đồng với mục tiêu của NNHC. Do đó, các cấp ủy chính quyền địa phương ở Hà Nội cần kết hợp phát triển NNHC gắn với các chương trình mục tiêu về xây dựng nông thôn mới, văn minh, bền vững, nhằm một mặt phát huy được lợi thế về đất đai và kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp của người dân, mặt khác, có thể thêm nguồn lực tài chính và khoa học công nghệ cho việc chuyển đổi phương thức canh truyền thống của người dân theo hướng hiện đại, bền vững.
4.2. GIẢI PHÁP HÀI HÕA QUAN HỆ LỢI ÍCH TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ĐẾN NĂM 2025, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
4.2.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và tăng cường quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp hữu cơ
Sản xuất NNHC là mục tiêu mà ngành nông nghiệp Hà Nội hướng tới nhằm tạo ra sản phẩm sạch, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, để thực hiện được mục tiêu này cần có hệ thống văn bản hướng dẫn, quy định hoàn thiện, đồng bộ để tạo lập hành lang pháp lý cho hoạt động của các chủ thể sản xuất và triển khai các chương trình hỗ trợ cho các chủ thể tiếp cận với nguồn vốn, khoa học công nghệ để phát triển sản xuất. Bên cạnh đó cần có sự tuyên truyền để người dân thay đổi thói quen sản xuất lạc hậu, khắc phục tình trạng sản xuất ở dạng nhỏ lẻ, manh mún. Cụ thể:
4.2.1.1. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch đất đai tạo điều kiện phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn Thành phố
Nâng cao công tác quy hoạch đất đai chính là thúc đẩy quá trình tập trung ruộng đất trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ, tạo ra những vùng sản xuất
119
chuyên môn hóa nhằm hướng đến xây dựng được những vùng sản xuất đủ lớn tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên kết dễ dàng hơn và thuận lợi áp dụng các quy trình canh tác tiên tiến, ứng dụng công nghệ cao. Quy hoạch ruộng đất tùy theo quy mô thị trường của từng nông sản hữu cơ, đặc điểm tự nhiên, canh tác của từng địa bàn của Thành phố. Công tác quy hoạch giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Việc quy hoạch ổn định vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp hữu cơ sẽ góp phần phát triển ổn định, bền vững của sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Trong thời gian qua, UBND thành phố Hà Nội đã thực hiện quy hoạch các vùng chuyên canh và giám sát thực hiện quy hoạch đối với một số mặt hàng nông sản hữu cơ chiến lược, quy hoạch đất cho chăn nuôi; ưu tiên phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng; chuyển đổi đất trồng lúa không hiệu quả sang trồng cây ăn quả, rau và các sản phẩm giá trị cao khác; bảo vệ đất lúa nhưng cho phép thay đổi linh hoạt mục đích sử dụng giữa đất lúa và các cây trồng khác. Quy hoạch vùng chăn nuôi cách xa khu dân cư tập trung. Bên cạnh đó, chính sách bảo vệ đất nông nghiệp và quyền lợi của nông dân bị thu hồi đất được ban hành và nêu rõ: Hạn chế việc thu hồi đất nông nghiệp cho các mục đích khác, chỉ tiến hành thu hồi đất cho mục đích an ninh, quốc phòng và dịch vụ công cộng thiết yếu. Sử dụng hiệu quả, tiết kiệm đất nông nghiệp, hạn chế chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp. Để phát triển sản xuất nông nghiệp đáp ứng mục tiêu kinh tế nông thôn phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường, trong quá trình tổ chức thực hiện, cần:
Rà soát sản xuất nông nghiệp công nghệ cao theo quy mô từng loại cây trồng, theo tiểu vùng sinh thái, phá tính manh mún, nhỏ lẻ; tạo sản phẩm thu hoạch cùng lúc để có thời gian vệ sinh đồng ruộng, không để ni-lông đã qua sử dụng tràn lan ngoài đồng ruộng, bởi hàng năm, lượng ni-lông loại bỏ phải hàng trăm tấn, sẽ gây ô nhiễm môi trường. Thực hiện quy hoạch tổng thể và chi tiết cho các vùng sản xuất chuyên canh, tập trung quy mô lớn nông nghiệp hữu cơ gắn với công nghệ hiện đại để cung cấp các sản phẩm hữu cơ đáp ứng
120
nhu cầu của thị trường, góp phần nâng cao thu nhập, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cần phối hợp chặt chẽ giữa các ngành trong việc phân bổ cụ thể quỹ đất nông nghiệp về quy mô diện tích, địa điểm và thời gian thực hiện. Xác định diện tích đất nông nghiệp cần giữ trên địa bàn, và lập bản đồ sử dụng đất nông nghiệp đến cấp xã và hộ sử dụng, đồng thời triển khai thực hiện việc quản lý đất đai, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo đúng thẩm quyền và căn cứ theo kế hoạch sử dụng đất đã được duyệt theo đúng quy định hiện hành. Trên cơ sở thành phố đã phê duyệt diện tích đất nông nghiệp cần bảo vệ thì việc chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp đòi hỏi phải có chế tài mạnh, được kiểm soát chặt chẽ, phải làm đúng theo Luật Đất đai. Cân đối đủ nguồn ngân sách cho địa phương để hạn chế tình trạng đổi đất lấy hạ tầng, chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp trong vùng quy hoạch sang phi nông nghiệp. Tăng cường triển khai công tác kiểm tra, thanh tra việc sử dụng đất, bảo vệ môi trường và việc thực hiện kế hoạch của địa phương nhằm giám sát hoạt động của hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai.
Đồng thời quy hoạch cũng khuyến khích người dân cần chủ động thực hiện dồn điền đổi thửa, trong đó nêu rõ: Nhà nước tổ chức đăng ký và hỗ trợ cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi chuyển đổi; hỗ trợ bằng vốn, khoa học - kỹ thuật, xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp (thủy lợi, giao thông, lưới điện... để giúp các cộng đồng nông thôn hoàn thành dự án chuyển đổi đất nông nghiệp. Thực hiện cải cách thủ tục chuyển nhượng và thuê đất, giảm thuế chuyển nhượng đất nông nghiệp trong dồn điền đổi thửa.
4.2.1.2. Xây dựng, hoàn thiện chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển nông nghiệp hữu cơ nhằm tạo động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hữu cơ phát triển ổn định, bền vững
Sản xuất nông nghiệp hữu cơ là lĩnh vực rủi ro cao, phụ thuộc nhiều vào các yếu tố khách quan như thời tiết, khí hậu, nhu cầu thị trường..., yêu cầu canh
121
tác khắt khe, kỹ thuật tỉ mỉ. Điều này dễ dẫn đến tâm lý chán nản, chùn bước cho chủ thể sản xuất. Do đó, cần tạo được động lực để thu hút người dân tham gia sản xuất. Để làm được điều đó cần có những giải pháp cụ thể như:
Thứ nhất, hoàn thiện và thực hiện lâu dài chính sách hỗ trợ tín dụng cho các chủ thể tham gia sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
Điều này giúp đảm bảo cho các chủ thể tham gia sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn Thành phố có khả năng tiếp cận với các nguồn tín dụng cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
Chính quyền ban hành chính sách ưu tiên cung cấp tín dụng cho lĩnh vực nông nghiệp nói chung và NNHC nói riêng, bảo lãnh và cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bảo lãnh và cho hợp tác xã vay phát triển sản xuất kinh doanh, cho nông dân vay sản xuất NNHC. Cân đối nguồn ngân sách của thành phố để trích một phần ngân sách thành lập quỹ hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao.
Tiếp tục hoàn thiện và bổ sung một số cơ chế chính sách mang tính đặc thù của sản xuất, kinh doanh NNHC. Đồng thời, chỉ đạo tổ chức tín dụng xây dựng và triển khai các sản phẩm tín dụng phù hợp với khả năng tiếp cận của người nông dân và đặc điểm của sản xuất NNHC; triển khai kịp thời các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho khách hàng vay vốn trong lĩnh vực sản xuất NNHC; cải tiến quy trình, thủ tục để rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay giúp người nông dân tiếp cận vốn vay hiệu quả nhất. Ngoài ra, ngành Ngân hàng tiếp tục phối hợp tốt với các tổ chức đoàn thể, hội (Hội Nông dân; Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên…) tăng cường tuyên truyền, phổ biến chính sách về tín dụng nông nghiệp, nông thôn, bởi đây là kênh ủy thác, chuyển tải nguồn vốn vay hiệu quả và nhanh nhất đến với nông dân.
Thứ hai, hoàn thiện chính sách hỗ trợ để thực hiện bảo hiểm nông nghiệp đối với các loại hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
Các chính sách hỗ trợ để thực hiện bảo hiểm nông nghiệp đối với các loại hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ giúp cho các chủ thể tham gia chuỗi
122
sản xuất nông nghiệp hữu cơ bảo toàn được vốn trong trường hợp xảy ra thiên tai, dịch bệnh và các điều kiện bất khả kháng khác để đảm bảo quá trình tái sản xuất nông nghiệp hữu cơ được diễn ra ổn định, từ đó đảm bảo lợi ích cho các chủ thể tham gia phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
Để sản xuất nông nghiệp hữu cơ phát triển ổn định, bền vững cần nhanh chóng có những chính sách cụ thể và cơ chế phù hợp để thực hiện bảo hiểm cho sản xuất nông nghiệp. Thực tế cho thấy, Việt Nam là một nước có tỷ lệ dân số sống ở khu vực nông thôn khá cao (trên 60% năm 2018) với gần 18% dân số làm nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp được coi là “trụ đỡ của nền kinh tế” trong những giai đoạn khủng hoảng kinh tế làm cho các ngành công nghiệp, dịch vụ lâm vào suy thoái trầm trọng. Tuy vậy, đây cũng là ngành sản xuất chịu ảnh hưởng rất lớn của những biến động thời tiết, hàng năm thiên tai, dịch bệnh đã gây thiệt hại cho ngành nông nghiệp giá trị tương đương hàng chục tỷ US.) Vì vậy, cần thực hiện tốt chính sách bảo hiểm nông nghiệp để người dân bảo vệ cho thành quả và công sức lao động của họ, góp phần giữ cho nông nghiệp, nông thôn phát triển ổn định, bền vững.
Việc thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp đã được Thủ tướng chính phủ ban hành thông qua Quyết định 315/QÐ-TTg (ngày 01/3/2011) về việc triển khai Thí điểm BHNN giai đoạn 2011 - 2013 tại 20 tỉnh, thành phố. Đây là một Chương trình lớn của Chính phủ nhằm hỗ trợ người sản xuất nông nghiệp khắc phục và bù đắp thiệt hại tài chính do hậu quả của thiên tai, dịch bệnh, góp phần thúc đẩy chăn nuôi phát triển. Trong đợt thí điểm này, Nhà nước hỗ trợ 100% phí bảo hiểm cho hộ nông dân thuộc diện nghèo; 80% hộ diện cận nghèo, 60% hộ bình thường; 20% cho tổ chức sản xuất nông nghiệp. Thành phố Hà Nội là 1 trong 20 tỉnh, thành được chọn làm mô hình thí điểm đối với đàn bò sữa và đàn lợn. Ngay từ cuối năm 2011, UBND Thành phố đã thành lập Ban Chỉ đạo bảo hiểm nông nghiệp để triển khai thực hiện và đã chọn Công ty Bảo hiểm Đông Đô trực tiếp triển khai nghiệp vụ
123
Bảo hiểm nông nghiệp; hai địa phương được thành phố lựa chọn là: Huyện Ba Vì để thực hiện thí điểm Bảo hiểm cho đàn bò sữa, huyện Chương Mỹ thực hiện thí điểm bảo hiểm cho đàn lợn. Thông qua việc thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp cho đàn bò sữa và đàn lợn tại thành phố Hà Nội đã rút ra những hạn chế cần khắc phục để bảo hiểm được thực hiện rộng rãi trong sản xuất nông nghiệp, cụ thể như:
Đối với đàn bò sữa cần mở rộng phạm vi bảo hiểm một số bệnh (về bệnh sinh sản, ký sinh trùng đường máu, những tác động cực đoan của thời tiết, thiên tai dẫn tới thiệt hại về năng suất...).
Đối với phí bảo hiểm, đây là loại hình mới nên vẫn cần có sự hỗ trợ của Nhà nước để giảm mức phí bảo hiểm ở mức phù hợp để đông đảo hộ sản xuất có thể tham gia.
Bên cạnh đó cần mở rộng phạm vi, nội dung công tác tuyên truyền, tập huấn về bảo hiểm nông nghiệp cho hộ sản xuất; có chính sách hỗ trợ kịp thời cho các cá nhân, tổ chức tham gia tuyên truyền về bảo hiểm nông nghiệp như: cán bộ cơ sở thôn, xóm, cán bộ thú y, những người trực tiếp tham gia vào công tác BHNN đến người dân.
Cần tiếp tục cải cách các thủ tục tham gia bảo hiểm theo hướng đơn giản, gọn nhẹ hơn, đặc biệt việc giải quyết bảo hiểm khi có rủi ro phải kịp thời có như vậy sẽ tạo sự đồng thuận cao với người dân tham gia bảo hiểm. Đồng thời tăng cường công tác quản lý nhằm hạn chế trường hợp trục lợi từ bảo hiểm.
Thứ ba, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn thành phố.
Trong thời gian tới, cần có thêm chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn thành phố. Các chính sách này sẽ được áp dụng trên cơ sở căn cứ Nghị định 98/2018 và Nghị định 83/2018 của Chính phủ, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ sau đầu tư, tập trung vào khâu sơ chế, chế biến, nhãn mác hàng hóa, truy xuất nguồn gốc và thương mại, tiêu