Nâng Cao Nhận Thức Của Các Chủ Thể Về Nông Nghiệp Hữu Cơ

132


xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị là sự cần thiết tất yếu giúp nâng cao hiệu quả sản xuất và thu nhập cho nông dân. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, xây dựng và phát triển chuỗi giá trị nông sản là xu hướng tất yếu, là nhân tố quan trọng thay đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, giúp ngành nông nghiệp tái cơ cấu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Về lâu dài chính quyền địa phương cần phải có sự tác động, can thiệp nhất định để người nông dân nâng cao tính chuyên nghiệp, tác phong công nghiệp, tạo nên nền tảng cơ bản, bền vững trong mối quan hệ với doanh nghiệp nói riêng và mục tiêu mang lại lợi nhuận trong phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung.

Để thực tiện tốt giải pháp này, cần có các biện pháp cụ thể như:

Một là, đẩy nhanh việc hình thành HTX kiểu mới, kết hợp với việc nâng cao quản trị, trình độ chuyên môn để sản xuất NNHC.

Hai là, thúc đẩy xây dựng các mô hình HTX liên kết theo chuỗi giá trị, trước hết đối với một số nông sản chủ lực của Thành phố.

Ba là, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền để nông dân biết, hiểu và làm theo những mô hình điểm sản xuất điển hình hiệu quả cao. Tuyên dương các HTX địa phương đạt thành tích xuất sắc trong việc phát triển, vận hành các tổ chức của nông dân để xây dựng chuỗi giá trị nông sản hữu cơ.

Bốn là, thực thi đầy đủ các chính sách của Nhà nước, hỗ trợ liên kết sản xuất, đặc biệt thực hiện tốt Nghị định 98/2018 của Chính phủ về hỗ trợ liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị.

4.2.3. Nâng cao nhận thức của các chủ thể về nông nghiệp hữu cơ

Nhận thức của các chủ thể trong phát triển nông nghiệp hữu cơ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xây dựng, phát triển nền sản xuất hữu cơ hiệu quả, bền vững. Việc hài hòa quan hệ lợi ích phụ thuộc rất lớn vào nhận thức của các chủ thể, nhất là niềm tin chiến lược trong sản xuất. Thời gian qua, nhận thức của các chủ thể về quan hệ liên kết sản xuất, cũng như quan hệ lợi

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.

133


Quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn Thành phố Hà Nội - 18

ích trong phát triển nông nghiệp hữu cơ còn nhiều hạn chế, gây ảnh hưởng đến tính bền vững của quan hệ liên kết sản xuất giữa các chủ thể trong phát triển nông nghiệp hữu cơ. Vì vậy, cần phải có giải pháp nâng cao nhận thức mọi mặt của các chủ thể nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và đáp ứng các tiêu chuẩn của sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Để nâng cao nhận thức của các chủ thể trong phát triển nông nghiệp hữu cơ cần thực hiện các biện pháp sau:

Thứ nhất, tuyên truyền sâu rộng nâng cao nhận thức cho các chủ thể về vị trí, vai trò và lợi ích kinh tế trong phát triển NNHC.

Để phát huy hiệu quả sản xuất, kinh doanh nông nghiệp hữu cơ cần bất đầu từ nhận thức của các chủ thể về lợi ích của nông nghiệp hữu cơ, hợp đồng liên kết kinh tế, vai trò của ứng dụng khoa học công nghệ, kỹ thuật vào sản xuất, kiến thức pháp luật về thị trường,.. Muốn vậy, cần làm tốt công tác tuyên truyền đối với các chủ thể. Tuyên truyền có tác dụng làm cho các chủ thể tham gia sản xuất, kinh doanh nông nghiệp hữu cơ nhận thức đầy đủ về những lợi ích mình thu được khi tham gia vào chuỗi giá trị hàng nông sản hữu cơ. Đồng thời khiến cho các chủ thể xác định được vị trí, vai trò của mình trong chuỗi giá trị này, qua đó tạo ra niềm tin và sự đồng thuận giữa các chủ thể. Nội dung tuyên truyền cần đảm bảo nguyên tắc tự do dân chủ, cần tập trung vào các vấn đề quan trọng của phát triển nông nghiệp hữu cơ như: Nâng cao nhận thức của các chủ thể về tính tất yếu khách quan và các lợi ích của các chủ thể khi tham gia phát triển nông nghiệp hữu cơ, nhất là vai trò của của việc đảm bảo hài hòa quan hệ lợi ích đối với sự phát triển nông nghiệp hữu cơ và phát triển nền nông nghiệp hàng hóa lớn; Công khai các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước để các chủ thể nhận thức được và tham gia liên kết phát triển nông nghiệp hữu cơ để tiếp cận được các chính sách hỗ trợ đó; Tăng cường tuyên truyền những mô hình có hiệu quả, những bài học kinh nghiệm từ các mô hình thành công trên thế giới và các địa phương để các chủ thể có thể vận dụng; Tuyên truyền cho các chủ thể ý thức

134


tuân thủ pháp luật, thực hiện nghiêm túc các hợp đồng liên kết, đặc biệt là mối liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân.

Để làm tốt công tác tuyên truyền, cần: Một là, mở rộng các hình thức tuyên truyền. Tuyên truyền trên các loại phương tiện thông tin đại chúng như internet, truyền hình, đài phát thanh, ở nhiều mục như tin nhanh, thời sự, bản tin nhà nông, bản tin thị trường,… Bên cạnh đó, là trên các ấn phẩm xuất bản như báo, tạp chí, chuyên san, kỷ yếu hội thảo, đề tài các cấp,... Thường xuyên tổ chức các Hội thảo khoa học, Diễn đàn khuyến nông,... cùng với gặp gỡ, trao đổi các chủ thể cùng tham gia phát triển NNHC. Hai là, đổi mới phương pháp tuyên truyền. Đổi mới và lựa chọn phương pháp tuyên truyền hiệu quả đối với các chủ thể, nhất là đối với nông dân - chủ thể có trình độ dân trí thấp, khả năng tiếp cận thông tin hạn chế, theo đuổi lợi ích trước mắt phổ biến. Cần phát huy cao độ vai trò của hệ thống chính trị cơ sở, nhất là vai trò của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn trong thực hiện công tác tuyên truyền về hiệu quả, lợi ích trong phát triển NNHC. Ba là, phối hợp tuyên truyền có hiệu quả. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan báo chí với ngành nông nghiệp, chính quyền cơ sở của Thành phố. Các cơ quan báo Thành phố cần phối hợp với nhau cùng với các cơ quan báo chí trung ương thực hiện tuyên truyền không chỉ cho Hà Nội mà cần tăng cường tuyên truyền những sự kiện liên quan đến vấn đề nông nghiệp của các vùng bằng thực tiễn sinh động; mở rộng mạng lưới cộng tác viên chuyên ngành nông nghiệp. Đưa các nội dung tuyên truyền về sản xuất nông nghiệp hữu cơ vào các mô hình hoạt động của các Câu lạc bộ “Phụ nữ với pháp luật”, Câu lạc bộ “Nông dân với pháp luật”, Câu lạc bộ “Tuổi trẻ phòng chống tội phạm”... Báo cáo viên trong các buổi lồng ghép nói chuyện chuyên đề phải là người có kiến thức chuyên ngành sâu rộng về lĩnh vực được trình bày và am về sản xuất nông nghiệp hữu cơ.

Mặt khác, cần phát huy vai trò của cộng đồng dân cư nông thôn để tuyên truyền tới những người sản xuất như: gia đình - dòng họ - làng xã để

135


hình thành những cộng đồng có ý thức trong bảo vệ môi trường và đảm bảo tính công khai, minh bạch trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ.

Thứ hai, chính quyền thực hiện thường xuyên cung cấp thông tin về chất lượng và giá cả cạnh tranh trên thị trường của các sản phẩm NNHC cũng như lợi ích thiết thực trong bảo vệ môi trường đến cá nhân, gia đình và cộng đồng dân cư nông thôn. Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội trong việc tích cực vận động thực hiện sản xuất, kinh doanh nông nghiệp xanh để góp phần thay đổi nhận thức của người nông dân về dịch vụ cho nông nghiệp xanh từ việc thay đổi phương thức sản xuất, quy trình kỹ thuật đến tăng tính liên kết, khơi mở thị trường cho nền nông nghiệp xanh. Cung cấp thông tin về các quy định kỹ thuật và yêu cầu chủ yếu về nông sản xanh của các tổ chức quốc tế và Việt Nam tới người dân, doanh nghiệp để đảm bảo chất lượng và độ an toàn của các sản phẩm mà họ sản xuất ra, và tránh được tất cả các nguy cơ tiềm tàng như rủi ro từ nguồn nước ô nhiễm hoặc ô nhiễm vi sinh vật hay hóa chất. Những thông tin này cần được bổ sung, cập nhật và có hướng dẫn cụ thể đối với người dân, doanh nghiệp. Lồng ghép xây dựng những chương trình khuyến nông cho dịch vụ nông nghiệp xanh trong các chương trình truyền hình để giới thiệu, quảng bá các mô hình sản xuất NNHC, các tiêu chuẩn kỹ thuật NNHC của Việt Nam và quốc tế, thúc đẩy phát triển các chuỗi sản xuất NNHC trên địa bàn Thành phố. Đồng thời, tổ chức sản xuất đồng bộ và quản lý môi trường nông nghiệp kỹ càng, hiệu quả.

Thứ ba, chú trọng thay đổi tập quán sản xuất, ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể tham gia phát triển NNHC. Một bộ phận lớn nông dân hiện nay trình độ học vấn còn thấp, tập quán canh tác lạc hậu, trình độ không đồng đều nên việc tiếp cận và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất còn hạn chế, gặp nhiều trở ngại. Yêu cầu đặt ra của người nông dân ngày nay phải có trình độ học vấn, có tay nghề, có phẩm chất đạo đức, có lối sống văn minh, có kiến thức pháp luật và chấp hành tốt pháp luật. Phải tạo

136


dần thói quen làm ăn trong môi trường tập thể, liên kết, hợp tác. Có như vậy mới phát huy sức mạnh, khắc phục điểm yếu, giảm bớt rủi ro, tạo nên lợi thế mà sản xuất riêng lẻ không làm được hoặc làm được nhưng hiệu quả không cao. Phải khẳng định rằng sản xuất theo mô hình liên kết, hợp tác là nền tảng để tiến dần lên sản xuất lớn, là con đường ngắn nhất để đưa nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất lớn. Do đó, cần tuyên truyền sâu rộng để nông dân thay đổi tập quán canh tác cũ, nâng cao nhận thức, kỹ năng trong việc tự quản lý quy trình sản xuất hữu cơ. Cùng với việc tuyên truyền, vận động nông dân áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, ngành nông nghiệp đẩy mạnh công tác khuyến nông, đưa nhiều bộ giống mới, biện pháp canh tác mới để nông dân chuyển đổi tập quán tập quán sản xuất. Tổ chức các buổi tọa đàm, thực tế nhằm giới thiệu các mô hình canh tác có hiệu quả để nông dân có thể làm theo.

tăng cường công tuyên truyền về vị trí, vai trò và ý nghĩa của phát triển sản xuất NNHC cho cán bộ, công chức cấp cơ sở và các chủ thể bằng nhiều hình thức như: sinh hoạt chuyên đề, tọa đàm giải đáp thắc mắc, thi tìm hiểu về sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở các thôn...; biên soạn tài liệu giới thiệu về tác dụng và lợi ích của sản xuất nông nghiệp hữu cơ đối với phát triển nông nghiệp nói riêng và đối với phát triển kinh tế xã hội nói chung để phát cho các hộ nông dân trong các buổi sinh hoạt cộng đồng; thực hiện lồng ghép tuyên truyền, phổ biến về các phương pháp sản xuất thân thiện với môi trường, các quy trình sản xuất nông nghiệp tốt như: VietGAP, GlobalGAP, PGS... tới người nông dân.

4.2.4. Nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ tổ chức quản lý cho các chủ thể tham gia phát triển nông nghiệp hữu cơ

Do sản xuất nông nghiệp hữu cơ là một phương pháp canh tác mới, nghiêm ngặt, có nhiều điểm khác biệt so với canh tác truyền thống, cộng với sản xuất nông nghiệp hữu cơ cũng mới manh nha phát triển ở Việt Nam từ 8 - 10 năm trở lại đây nên sản xuất nông nghiệp hữu cơ còn tương đối lạ lẫm và

137


mới lạ với các chủ thể sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Vì vậy, các chủ thể cần được nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ tổ chức quản lý để có thể tham gia sâu vào quá trình sản xuất này. Để làm được điều này thì cần thông qua quá trình đào tạo góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Đây được xem là giải pháp lâu dài cho phát triển nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp công nghệ cao hướng tới mục tiêu phát triển bền vững ngành nông nghiệp. Từ đó tạo tiền đề vững chắc cho quá trình chuyển giao khoa học công nghệ, các quy trình sản xuất tiến bộ vào phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ.

Hiện nay trên địa bàn thành phố Hà Nội đã có rất nhiều tổ chức, sở, ngành, các nhà khoa học có kế hoạch hỗ trợ nông dân về kỹ thuật. Tuy nhiên cách thức tổ chức chưa thực sự khoa học và có tính trọng điểm (chủ yếu việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức sản xuất cho nông dân được thực hiện thông qua các đề án đào tạo nghề nông thôn và thực hiện dàn trải, đến khi kế hoạch, dự án kết thúc thì mọi việc của nông dân cũng trở về điểm xuất phát). Trong khi đó, việc khảo sát cho thấy phần lớn nông dân thiếu tri thức về sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, ngoài ra kinh nghiệm thực tiễn về sản xuất nông nghiệp hữu cơ theo các quy trình còn rất hạn chế. Bên cạnh đó, sản xuất nông nghiệp hữu cơ cần dựa trên ứng dụng thành tựu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi đội ngũ lao động có trình độ tay nghề cao, thành thạo việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật… mới tạo được hiệu quả kinh tế.

Để nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ tổ chức quản lý trong sản xuất NNHC hợp lý, tạo được sự đồng thuận cao của người dân, cần thực hiện đồng bộ các nội dung cụ thể sau:

Một là, xây dựng các chương trình nâng cao chất lượng đào tạo dài hạn, ngắn hạn, cập nhật kiến thức về nông nghiệp công nghệ cao, NNHC... giúp cán bộ các địa phương, cán bộ hợp tác xã có kỹ năng làm việc. Các cơ sở đào

138


tạo cũng tăng cường quan hệ quốc tế, mời các trường về giao lưu, nói chuyện cũng như hàng năm có những chuyến khảo sát trong nước và quốc tế dưới các hình thức linh hoạt để có thể tiếp thu tốt những kiến thức tiên tiến của các nước, từ đó ứng dụng vào thực tiễn Hà Nội. Gắn đào tạo với thực hành, đào tạo theo nhu cầu thị trường và đơn đặt hàng của doanh nghiệp, hay đón đầu xu hướng NNHC thế giới mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho các bên tham gia và cộng đồng xã hội.

Hai là, liên kết mở các lớp đào tạo nghề. Cần tìm ra các mô hình đào tạo nghề phù hợp với từng địa phương, đặc biệt là công tác liên kết đào tạo nghề để đáp ứng nhu cầu đào tạo theo địa chỉ, đơn đặt hàng của các doanh nghiệp. Trong đó, cần liên kết với các trường đại học, cao đẳng kỹ thuật trên địa bàn Thành phố Hà Nội để nâng cao chất lượng dạy nghề. Các huyện Thành phố Hà Nội cần chủ động phối hợp với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Hà Nội và các ngành liên quan nghiên cứu, dự báo, xây dựng quy chế, kế hoạch sử dụng lao động, cơ cấu trình độ gắn liền với quy hoạch phát triển NNHC trên địa bàn các huyện làm căn cứ đào tạo nghề, nhất là lao động ở các địa bàn bị thu hồi đất nhiều

Ba là, sử dụng có hiệu quả lao động tham gia chuỗi giá trị hàng nông sản hữu cơ. Hiện nay, nhu cầu về chất lượng lao động trong sản xuất NNHC ngày càng tăng dẫn đến quá trình chuyên môn hóa người nông dân. Thành phố cần khuyến khích người nông dân có đủ trình độ tay nghề chuyên môn đăng ký tham gia sản xuất nông nghiệp hữu cơ và trở thành thành hội viên Hội nông dân, được hưởng các quyền lợi nhà nước ưu tiên cho nông dân (sử dụng đất nông nghiệp, tích tụ đất nông nghiệp, bảo hiểm nông nghiệp, vay vốn phát triển sản xuất…). Ban hành chính sách khuyến khích nông dân học nghề (tay nghề càng cao thì càng ưu đãi vay vốn, ưu đãi tích tụ ruộng đất, hỗ trợ áp dụng khoa học công nghệ,…). Hình thành và phát triển quỹ cho lao động trẻ tham gia sản xuất nông nghiệp hữu cơ vay lập nghiệp (xây dựng doanh

139


nghiệp, xây dựng trang trại, mở dịch vụ khoa học công nghệ, dịch vụ phục vụ đời sống,…); trợ cấp cho trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp, hiệp hội, cộng đồng, thu hút trí thức trẻ về sản xuất nông nghiệp hữu cơ, hình thành đội ngũ dịch vụ kỹ thuật khuyến nông, bảo vệ thực vật, thú y chất lượng cao.

4.2.5. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ của các chủ thể tham gia sản xuất nông nghiệp hữu cơ

Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ của các chủ thể tham gia săn xuất nông nghiệp hữu cơ chính là giúp cho các chủ thể sản xuất nâng cao năng lực ứng dụng khoa học công nghệ để từ đó vận dụng vào phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ.

Nâng cao khả năng ứng dụng khoa học công nghệ của các chủ thể sản xuất nông nghiệp hữu cơ là giải pháp quan trọng nhằm bảo đảm phát triển sản xuất NNHC trên cơ sở hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể kinh tế trong sản xuất, cần có các kế hoạch, quy hoạch về phát triển và vùng sản xuất chuyên canh, Thành phố Hà Nội phải tăng cường áp dụng các tiến bộ khoa học-công nghệ vào sản xuất, kinh doanh, thay đổi một số tập quán canh tác, thực hiện tốt công tác quản lý phòng trừ dịch bệnh tổng hợp (IPM). Nội dung cụ thể là:

Thứ nhất, tích cực đưa cơ giới hóa vào sản xuất NNHC. Cơ giới hóa là giải pháp quan trọng để phát triển nông nghiệp, hiện đại hóa nông thôn. Để thực hiện được nhiệm vụ này, đòi hỏi Thành phố Hà Nội cần ban hành hệ thống chính sách đồng bộ hỗ trợ, thúc đẩy áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp, nhân rộng mô hình cánh đồng lớn, cơ khí hóa đồng bộ trong sản xuất, chế biến nông sản thực phẩm… tạo điều kiện cho chính quyền các huyện, nông dân, doanh nghiệp, các tổ chức sản xuất nông, lâm, thủy sản áp dụng nhanh cơ giới hóa vào các khâu từ sản xuất - bảo quản - chế biến - vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm. Tăng cường đầu tư để tiến tới cơ giới hóa đồng bộ các khâu trong lĩnh vực sản xuất, ưu tiên đầu tư trang bị ở các khâu: Cơ giới hóa phục vụ trồng trọt, chăn nuôi, vận chuyển trong nông nghiệp nông

Xem tất cả 160 trang.

Ngày đăng: 27/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí