Các Giải Pháp Trong Lĩnh Vực Đầu Tư

ngoài, các hiệp hội ngành nghề và các cơ quan XTTM của các bộ, tổng công ty ngành nghề. Vì thế, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan này để đảm bảo hiệu quả của công tác XTTM.

Riêng đối với thị trường Hàn Quốc, hoạt động xúc tiến xuất khẩu trong

thời

gian tới cần tập trung vào việc nghiên cứu thị trường, mở rộng danh mục sản phẩm xuất khẩu, xây dựng thương hiệu và hoàn thiện mạng lưới xúc tiến xuất khẩu.

Tăng cường công tác nghiên cứu và cung cấp thông tin về thị trường Hàn Quốc.

Thực tế cho thấy công tác nghiên cứu thị trường của nước ta còn rất kém hiệu quả. Vì thế, để mở rộng xuất khẩu, không chỉ riêng thị trường Hàn Quốc, mà tất cả các thị trường khác đều cần phải được nghiên cứu một cách hệ thống. Cho đến nay, các bộ chuyên ngành, đặc biệt những bộ có sản phẩm tham gia xuất khẩu, đều thực hiện nghiên cứu các thị trường xuất khẩu cho sản phẩm của ngành mình. Để tránh chồng chéo, hoạt động nghiên cứu thị trường xuất khẩu trong phạm vi Bộ công thương có thể được tiến hành thông qua một số vụ trong cơ quan Bộ như Vụ Châu Á Thái Bình Dương, Vụ Xuất nhập khẩu, Viện Nghiên cứu Thương mại, Trung tâm Thông tin thương mại và các thương vụ Việt Nam ở nước ngoài. Các cơ quan này tập trung nghiên cứu tổng quan về thị trường Hàn Quốc. Cụ thể là chỉ ra những xu hướng phát triển của toàn bộ nền kinh tế, giới thiệu các tập quán kinh doanh của Hàn Quốc cũng như các vùng khác nhau của nước này, giới thiệu cho doanh nghiệp về hệ thống phân phối của Hàn Quốc, thói quen tiêu dùng của người Hàn Quốc...

Trong điều kiện toàn cầu hoá, khu vực hoá được tăng cường như hiện

nay,

cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp để giành thị phần là rất quyết liệt. Hơn nữa, sự phát triển của khoa học và công nghệ đã làm thay đổi phần nào các yếu tố tác động lên khả năng cạnh tranh của các quốc gia, các ngành và các doanh nghiệp. Ngày nay, các yếu tố như tri thức và liên quan với nó là chất lượng nguồn nhân lực, vốn, sự khác biệt của sản phẩm và sự tham gia có lực 100

chọn của chính phủ vào một số hoạt động kinh tế giữ vai trò quan trọng hơn so với một số yếu tố khác như đất đai, điều kiện tự nhiên, lao động rẻ. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu thị trường Hàn Quốc nói riêng và nghiên cứu các thị trường nước ngoài nói chung cần phải được tập trung nhiều hơn vào việc tìm hiểu thói quen, sở thích, điều kiện kinh tế của người tiêu dùng, nhằm tạo nên những sản phẩm không những chỉ phù hợp với nhu cầu của họ, mà còn làm thỏa mãn chúng đến mức tối đa. Tuy người dân Hàn Quốc theo nhiều dòng đạo khác nhau, song trong một vài lĩnh vực như giáo dục, hành chính quốc gia, phong tục tập quán, các mối quan hệ xã hội lại chịu ảnh hưởng rất mạnh của đạo Khổng. Họ là những người có ý thức dân tộc rất mạnh, giữ tôn ti trật tự và lễ giáo rất kỷ cương. Việc quan tâm đến những giá trị đạo đức truyền thống này trong quá trình nghiên cứu thị trường Hàn Quốc sẽ giúp chúng ta có thể nhìn nhận thói quen tiêu dùng của người dân nước này một cách toàn diện hơn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.

Thông qua việc nghiên cứu thị trường, hãy làm cho các doanh nghiệp Việt Nam hiểu rằng trong giai đoạn hiện tại, muốn chiếm lĩnh thị trường, họ không thể bán ra các sản phẩm họ có, mà phải tạo nên các sản phẩm mà người tiêu dùng cần để bán cho họ với mức giá cạnh tranh so với các đối thủ. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần phải quan tâm đến việc đạt được tính khác biệt trong các sản phẩm xuất khẩu của mình. Chính đặc trưng này sẽ tạo nên sự hấp dẫn của sản phẩm đối với người tiêu dùng và khuyến khích họ mua hàng.

Các kết quả từ hoạt động nghiên cứu thị trường phải được phổ biến một cách hiệu quả và nhanh nhất đến các đối tượng quan tâm. Chúng có thể được cập nhật trên trang Web của Bộ, hoặc được cung cấp dưới dạng các ấn phẩm.

Quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc giai đoạn 1992 đến nay - 14

Mở rộng danh mục sản phẩm xuất khẩu.

Việc mở rộng danh mục hàng hoá xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc trong thời gian tới cần được dựa trên khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam và đặc điểm của thị trường người tiêu dùng Hàn Quốc. Theo các nhà nghiên cứu, Việt Nam có lợi thế cạnh tranh trong việc sản xuất và chế biến nhiều mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản, hàng may mặc, dâu tằm tơ, sản xuất sợi, sản xuất giày thể thao, giày vải và giày nữ, nguyên liệu, linh kiện điện tử và công

101

nghệ thông tin. Tuy nhiên, trên thị trường Hàn Quốc, một số hàng có khả năng cạnh tranh của Việt Nam như may mặc, đồ chơi, khó có thể trụ được, bởi sự cạnh tranh của hàng hoá từ Trung Quốc.. Vì thế, để mở rộng danh mục hàng hoá xuất khẩu, Việt Nam cần tập trung vào những hàng hoá mà thị trường Hàn Quốc đã chấp nhận và có khả năng sẽ chấp nhận. Đối với những hàng hoá đã được thị trường Hàn Quốc chấp nhận như thực phẩm chế biến từ thuỷ sản, thuỷ sản đông lạnh, đồ gỗ, đồ nội thất, đèn điện tử, thiết bị viễn thông, một số nguyên liệu như cao su, khoáng sản, chúng ta sẽ phải cố gắng đảm bảo chất lượng, cũng như những yêu cầu ngày càng chặt chẽ hơn của thị trường về vệ sinh an toàn thực phẩm và các tiêu chuẩn khác, để nắm bắt được các cơ hội mở rộng xuất khẩu. Đối với những sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu cao của Việt Nam như hàng thủ công mỹ nghệ (cạnh tranh được do giá cả thấp hơn sản phẩm của Trung Quốc từ 8-10%), đồ gỗ nội thất, cần phải có chiến lược xây dựng thương hiệu, quảng bá và giới thiệu sản phẩm thích hợp đến người tiêu dùng. Riêng đối với các sản phẩm nông sản nhiệt đới, để có thể xuất khẩu vào thị trường Hàn Quốc, vấn đề cơ bản là phải đạt được các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp xuất khẩu phải có được giấy chứng nhận tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và phải có giá cả cạnh tranh so với hàng Thái Lan và Philippin trên thị trường này và với điều kiện thị trường Hàn Quốc phải mở cửa thị trường hơn nữa đối với mặt hàng này.

Vấn đề xây dựng thương hiệu cho hàng hoá Việt Nam.

Vấn đề này đang đòi hỏi phải có sự quan tâm thích đáng từ phía chính phủ trong việc nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp và doanh nhân cũng như tạo khung pháp lý cần thiết, từ phía các doanh nghiệp trong việc xây dựng và bảo vệ thương hiệu cho các sản phẩm của mình trên thị trường. Đây là một giải pháp cần thiết không chỉ riêng đối với hàng hoá xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc, mà với tất cả các hàng hoá cũng như dịch vụ được lưu thông trên thị trường. Bởi trong điều kiện cuộc cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế ngày càng gay gắt, sự khác biệt của sản phẩm là một trong những yếu tố tạo nên và duy trì sức cạnh tranh của sản phẩm và nó sẽ được bảo về hữu hiệu nếu hàng hoá có thương hiệu và được đăng ký hợp pháp.

102

Hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả đối với công tác xúc tiến xuất khẩu.

Hiện nay, tham gia vào mạng lưới các tổ chức xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam bao gồm Bộ Thương mại và các đơn vị trực thuộc, các cơ quan xúc tiến xuất khẩu của các bộ ngành liên quan, các tổ chức xúc tiến xuất khẩu phi chính phủ, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu và các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu, trong đó Cục Xúc tiến Thương mại (được thành lập vào năm 2000) của Bộ Thương mại thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực này và tiến hành các hoạt động hướng dẫn và hỗ trợ xuất khẩu ở qui mô quốc gia. Như vậy, về cơ bản, mạng lưới tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam đã được hình thành và phát huy tác dụng, đã có những tác động tích cực trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tham gia thị trường quốc tế và đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, do mới hình thành và phát triển, nên hệ thống xúc tiến thương mại của nước ta còn nhiều bất cập, như thiếu sự liên kết giữa các tổ chức thành viên trong hệ thống, năng lực thực hiện xúc tiến xuất khẩu còn yếu, các luồng thông tin thương mại chưa được lưu thông thông suốt trong toàn bộ hệ thống, chưa đáp ứng được yêu cầu thông tin cho các đối tác trong hệ thống, cơ sở hạ tầng cho xúc tiến xuất khẩu còn chưa hoàn thiện và thiếu nguồn kinh phí cần thiết.

Như đã phân tích ở mục 2.1, mạng lưới xúc tiến xuất khẩu của Hàn Quốc đã được phát triển rất mạnh và rất thành công. Vì thế, trong việc hoàn thiện tổ chức đối với mạng lưới xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam, chúng ta có thể học tập nhiều từ Hàn Quốc. Có hai tổ chức giữ vai trò khá quan trọng trong mạng lưới xúc tiến xuất khẩu của Hàn Quốc là Tổ chức Xúc tiến Thương mại Hàn Quốc (KOTRA) và Công ty Thương mại Quốc tế Hàn Quốc (KOTI). KOTRA cung cấp các dịch vụ cho các nhà kinh doanh và đầu tư trên khắp thế giới thông qua hệ thống thông tin thương mại được lưu giữ tại trụ sở chính ở Seoul, 10 chi nhánh ở trong nước và 82 trung tâm thương mại ở nước ngoài. Bên cạnh việc cung cấp thông tin, KOTRA còn thực hiện các dự án nghiên cứu, nhằm hỗ trợ các nhà xuất khẩu Hàn Quốc xác định các cơ hội kinh doanh mới ở nước ngoài, sắp xếp các cuộc gặp gỡ vì mục đích kinh doanh giữa các

103

nhà sản xuất Hàn Quốc với các người mua hàng nước ngoài, đưa ra các đề xuất cho các hoạt động thương mại đối lưu và giúp đỡ một cách hiệu quả cho các nhà nhập khẩu Hàn Quốc. Với tư cách là một tổng công ty thương mại, KOTI có nhiệm vụ thực hiện hoạt động xuất khẩu các hàng hoá do 3.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hàn Quốc sản xuất ra và nhập khẩu các hàng hoá cần thiết từ nước ngoài cho thị trường trong nước. Với 7 chi nhánh được thành lập trên cả nước, KOTI đã và đang tập trung vào việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp thành viên thông qua việc tham gia vào các hội chợ, triển lãm quốc tế và trong nước.

Qua so sánh, có thể thấy rằng Cục Xúc tiến Thương mại thuộc Bộ Công Thương Việt Nam thực hiện các nhiệm vụ tương đương như của KOTRA. Trong điều kiện Cục chưa thành lập được nhiều trung tâm thương mại ở nước ngoài, hoạt động xúc tiến xuất khẩu và nghiên cứu thị trường thường do các thương vụ Việt Nam ở nước ngoài đảm nhận. Thực tế đó đòi hỏi phải có sự kết hợp rất chặt chẽ giữa hai tổ chức này. Rất may mắn là Thương vụ Việt Nam tại Hàn Quốc là một trong số 42 thương vụ Việt Nam ở nước ngoài. Theo đánh giá của các chuyên gia Bộ Thương mại, hoạt động của các thương vụ đạt kết quả khá tốt trong lĩnh vực cung cấp thông tin về sự phát triển kinh tế-xã hội của nước sở tại, về hệ thống chính sách, trong đó đặc biệt là chính sách thương mại và đầu tư của họ, về các cơ hội xuất khẩu và nhu cầu nhập khẩu của các thị trường tương ứng, tham gia chuẩn bị nội dung và phục vụ các đoàn công tác của chính phủ và giới kinh doanh đi công tác và khảo sát thị trường nước ngoài, cung cấp các thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu của họ, tổ chức các đoàn doanh nghiệp Việt Nam tham dự hội chợ ở nước ngoài... Bên cạnh đó, hoạt động của các thương vụ vẫn còn nhiều bất cập cần khắc phục, như chưa cung cấp thường xuyên thông tin về cơ quan bộ, chưa có trang Web riêng, nội dung của việc nghiên cứu thị trường nước sở tại còn nghèo nàn, chưa đáp ứng yêu cầu trong nước. Đặc biệt, thương vụ ở Hàn Quốc - một thị trường mà Việt Nam bị nhập siêu lớn - chưa đề xuất được các giải pháp hữu hiệu để giảm nhập siêu.

104

Trong điều kiện đó, trước mắt, để nâng cao vai trò của các thương vụ trong việc thực hiện chiến lược phát triển xuất khẩu quốc gia, cần xác định rõ nhiệm vụ của họ, tạo cơ sở vật chất và kỹ thuật cũng như năng lực cán bộ để họ có thể thực hiện tốt công tác nghiên cứu thị trường theo đúng như yêu cầu mà công tác xúc tiến xuất khẩu đòi hỏi và cung cấp thông tin cần thiết về trong nước một cách liên tục và kịp thời thông qua mạng thông tin nội bộ. Trong dài hạn, hoạt động xúc tiến xuất khẩu (được hiểu theo nghĩa rộng) của các thương vụ cần phải đặt dưới sự quản lý của Cục Xúc tiến Thương mại và nếu cần, chúng có thể là bộ phận (chi nhánh) của Cục này.

Ngoài ra, cần nâng cao năng lực hoạt động xúc tiến xuất khẩu của các hiệp hội ngành hàng, qua đó, có thể hỗ trợ hoạt động xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bởi lẽ các thành viên của các hiệp hội này phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Mở rộng khả năng tiếp cận nguốn vốn cần thiết cho hoạt động xuất khẩu.

Theo ý kiến của các nhà xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng Việt Nam sang Hàn Quốc nhìn chung rất khó tiếp cận với nguồn tài chính từ Quỹ Hỗ trợ Phát triển nói riêng và từ nguồn tín dụng cho xuất khẩu nói chung. Thực tế này gây khó khăn cho những doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu hàng hoá nông sản, như cà phê, chè..., vì họ luôn cần lượng vốn lớn khi đến vụ thu hoạch. Vì thế, nên có những ngoại lệ đối với các trường hợp này. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam thường có qui mô vừa và nhỏ, với nguồn tài chính hạn hẹp, nên chính phủ cần đưa ra các chính sách thích hợp nhằm mở rộng khả năng tiếp cận với nguồn tín dụng của chính phủ, đồng thời đáp ứng các yêu cầu của các hiệp định trong phạm vi WTO, như bảo lãnh vay tín dụng, áp dụng các qui chế tiếp cận vốn riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu.

Trong tương lai, khi quá trình hội nhập khu vực và quốc tế ngày càng được tăng cường, cuộc cạnh tranh giành thị trường, giành nguồn cung cấp đầu vào sẽ rất gay gắt. Trong cuộc cạnh tranh này, sản phẩm có khả năng cạnh tranh hơn sẽ là những sản phẩm làm thoả mãn sở thích, mong muốn của người tiêu dùng lớn hơn.

105

Chính vì thế, để có được những mặt hàng thoả mãn ở mức độ ngày càng cao sở thích của người tiêu dùng, các doanh nghiệp cần phải tập trung nhiều hơn vào việc nghiên cứu thị trường người tiêu dùng, thiết kế sản phẩm và tạo ra những sản phẩm có thương hiệu riêng với những đặc trưng riêng của mỗi doanh nghiệp. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp cần được sự hỗ trợ của nhà nước trong việc cung cấp các thông tin về các thị trường xuất khẩu, cụ thể là Hàn Quốc, và người tiêu dùng ở đó. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề đảm bảo các qui định về tiêu chuẩn khi tham gia xuất khẩu. Đây hiện đang là một rào cản phi thuế quan được sử dụng khá phổ biến trên thế giới. Vừa qua, Việt Nam có thể gia tăng mạnh xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Hàn Quốc, một phần bởi số doanh nghiệp Việt Nam được Trung tâm kiểm tra chất lượng vệ sinh thuỷ sản Hàn Quốc công nhận đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường này tăng lên. Để làm được việc này, chính phủ cần trang bị kiến thức cho các doanh nghiệp về vấn đề tiêu chuẩn nói chung, giới thiệu về tiêu chuẩn của các thị trường xuất khẩu cụ thể...

Các giải pháp định hướng nhập khẩu:

Tăng cường thu hút đầu tư của Hàn Quốc vào các ngành công nghiệp phụ trợ và một số ngành mà Việt Nam có lợi thế so sánh.

Như sản xuất nguyên liệu cho ngành dệt may, phát triển công nghệ thông tin chẳng hạn. Vừa qua trong kỳ họp của Uỷ ban liên chính phủ Việt Nam - Hàn Quốc, hai bên đã nhất trí rằng cần khuyến khích và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư Hàn Quốc tăng cường đầu tư vào Việt Nam, nhất là trong một số ngành công nghiệp dệt, may, da giày, công nghệ thông tin, thông tin liên lạc, khai khoáng, năng lượng và vào một số lĩnh vực có thể xuất khẩu quay trở lại Hàn Quốc được như nuôi, trồng và chế biến thuỷ sản, nông sản. Đầu năm 2004, một dự án của Hàn Quốc về việc đầu tư xây dựng 4 xí nghiệp liên kết nhau để sản xuất phụ liệu cho ngành dệt, may đã được phê duyệt. Dự kiến năm 2007, dự án này sẽ hoàn tất và đi vào hoạt động và có thể tuyển dụng tới 15.000 lao động. Đây là hướng đi thích hợp để giảm bớt nhập khẩu nguyên liệu đầu vào từ Hàn Quốc. Bên cạnh đó, Việt Nam và Hàn Quốc đã ký kết Chương trình hợp tác trong lĩnh vực công nghệ thông

106

tin. Trong chương trình này, Hàn Quốc đã chú trọng đến việc đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam cho ngành công nghiệp quan trọng này không chỉ để giúp Việt Nam nâng cao trình độ nguồn nhân lực, mà còn cung cấp lao động có đủ trình độ và kỹ năng cho các cơ sở có vốn đầu tư của Hàn Quốc ở nước ta, và có thể còn xuất khẩu lao động có kỹ năng sang Hàn Quốc.

Tăng cường và khuyến khích tìm nguồn nguyên liệu thay thế trong nước.

Trước thực tế rằng hiện nay, các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam phần lớn đều là những hàng hoá có giá trị gia tăng thấp, do phải nhập khẩu các nguyên liệu đầu vào. Đặc điểm này được thể hiện rất rõ nét trong trao đổi hàng hoá Việt Nam - Hàn Quốc. Các chuyên gia kinh tế đã cho rằng trong ngành may mặc chẳng hạn, nếu Việt Nam sản xuất được, hoặc chỉ cần chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào, cụ thể là vải các loại, thì giá trị xuất khẩu có thể tăng gấp 4-5 lần. Chúng ta đã xác định rằng Việt Nam có lợi thế cạnh tranh trong sản xuất sợi, đặc biệt là sợi tơ chải kỹ. Trong điều kiện đó, nếu có được công nghệ thích hợp, Việt Nam có thể sản xuất được nhiều loại vải cho ngành may mặc.

3.2.2.2. Các giải pháp trong lĩnh vực đầu tư

Đối với công tác quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư nước ngoài:

Tổng kết thực hiện quá trình Thực hiện hoạt động đầu tư nước ngoài trong những năm qua, nhằm đổi mới toàn diện công tác quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài về bộ máy tổ chức, từ quy trình thẩm định dự án, cấp giấy phép đầu tư và điều chỉnh giấy phép đầu tư, phân cấp quản lý các dự án theo cấp TƯ và địa phương; công tác quản lý Nhà nước về vận động và xúc tiến đầu tư cho phù hợp với thực trạng của tình hình mới của Việt Nam hiện nay và trong bối cảnh sự cạnh tranh thu hút luồng vốn đầu tư giữa các nước, nhất là các nước đang phát triển ngày càng quyết liệt.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đại diện của Chính phủ thực hiện nhiệm vụ chủ yếu về công tác lập chính sách vĩ mô về thu hút và sử dụng nguồn vốn Đầu tư nước ngoài, thực hiện chức năng giám sát việc tổ chức quản lý và điều hành của các Bộ ngành, các Tỉnh, Thành phố trong lĩnh vực Đầu tư nước ngoài.

Xem tất cả 131 trang.

Ngày đăng: 26/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí