Nghiên cứu định lượng: Tác giả sử dụng phương pháp điều tra xã hội học để thu thập dữ liệu, khảo sát thực tiễn nhằm tìm hiểu thực tế và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng áp dụng phương pháp ABC tại nhóm các DN này. Các nhân tố này là cơ sở để tác giả đề xuất những kiến nghị nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các giải pháp đề ra.
Đối với dữ liệu định tính, nhóm nghiên cứu sẽ tổng hợp, phân tích phù hợp với đối tượng nghiên cứu của luận án. Đối với dữ liệu định lượng, tác giả sử dụng phần mềm Excel và phần mềm SPSS để thống kê mô tả, kiểm định thang đo, phân tích tương quan, phân tích hồi quy, kiểm định giả thuyết về độ tin cậy, phân tích nhân tố khám phá EFA, phân tích nhân tố khẳng định CFA và mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) để kiểm định các giả thuyết và mô hình nghiên cứu đề xuất.
Phương pháp nghiên cứu và quy trình nghiên cứu sẽ được trình bày chi tiết trong chương 2 của luận án.
7. Các kết quả nghiên cứu dự kiến đạt được
Luận án dự kiến đạt được những kết quả nghiên cứu sau đây:
Những đóng góp về mặt lý luận, học thuật:
Có thể bạn quan tâm!
- Phương pháp xác định chi phí dựa trên cơ sở hoạt động tại một số doanh nghiệp sản xuất thuộc Tổng Công ty Viglacera-CTCP - 1
- Phương pháp xác định chi phí dựa trên cơ sở hoạt động tại một số doanh nghiệp sản xuất thuộc Tổng Công ty Viglacera-CTCP - 2
- Các Nghiên Cứu Liên Quan Đến Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Việc Áp Dụng Phương Pháp Abc Trong Dn
- Phương Pháp Xác Định Chi Phí Trong Doanh Nghiệp Sản Xuất
- Nội Dung Phương Pháp Xác Định Chi Phí Dựa Trên Cơ Sở Hoạt Động
- Mối Quan Hệ Giữa Các Khái Niệm Cơ Bản Trong Phương Pháp Abc
Xem toàn bộ 262 trang tài liệu này.
Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về phương pháp ABC trong DNSX như: khái niệm, nội dung, quy trình triển khai, mô hình áp dụng và các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng áp dụng phương pháp ABC trong DN.
Những đóng góp về đánh giá thực tiễn:
Luận án làm rõ tình hình áp dụng phương pháp xác định chi phí tại một số DNSX thuộc TCT Viglacera và các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng áp dụng phương pháp ABC tại nhóm các DN này.
Những đóng góp về giải pháp:
Là công trình nghiên cứu đưa ra các giải pháp khả thi nhằm áp dụng phương pháp ABC tại một số DNSX thuộc TCT Viglacera, đồng thời đưa ra các khuyến nghị đối với Nhà nước và với bản thân DN nhằm tạo điều kiện áp dụng thành công phương pháp ABC tại một số DNSX thuộc TCT Viglacera.
8. Kết cấu của luận án
Để thực hiện nội dung nghiên cứu, ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu gồm 4 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phương pháp xác định chi phí dựa trên cơ sở hoạt động trong DNSX
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu và quy trình nghiên cứu
Chương 3: Tình hình áp dụng phương pháp xác định chi phí dựa trên cơ sở hoạt động tại một số DNSX thuộc TCT Viglacera
Chương 4: Giải pháp áp dụng phương pháp xác định chi phí dựa trên cơ sở hoạt động tại một số DNSX thuộc TCT Viglacera
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH CHI PHÍ
DỰA TRÊN CƠ SỞ HOẠT ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1. Tổng quan về chi phí và phương pháp xác định chi phí trong doanh nghiệp sản xuất
1.1.1. Chi phí và phân loại chi phí
Khái niệm chi phí
Hoạt động sản xuất kinh doanh của DN là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục tiêu sinh lời. Để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, DN cần phải huy động và sử dụng các nguồn lực (nhân lực và vật lực). Mục đích của việc sử dụng, tiêu dùng nguồn lực là nhằm thu được lợi ích kinh tế trong tương lai thông qua phần chênh lệch giữa các khoản thu về hoặc sẽ thu về với nguồn lực đã sử dụng. Việc sử dụng, tiêu dùng các nguồn lực tạo ra chi phí của DN. DN muốn sinh lợi tốt thì phải quản trị tốt việc sử dụng, tiêu dùng các nguồn lực, hay nói cách khác là phải quản trị tốt chi phí. Đó là lý do chi phí được xem là một trong những yếu tố trung tâm của công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh trong DN. Khái niệm chi phí được nhìn nhận theo nhiều góc độ khác nhau tùy thuộc vào mục đích sử dụng thông tin chi phí.
Ở khía cạnh tổng quát nhất, trong “Từ điển kinh tế học”, tác giả Nguyễn Văn Ngọc (2006) cho rằng “Chi phí là cái chúng ta từ bỏ để nhận được một cái gì đó, có thể thông qua hành vi mua, trao đổi hay sản xuất”.
Theo quan điểm kế toán tài chính, chi phí là các lợi ích kinh tế bị giảm sút trong kỳ kế toán dưới dạng các luồng ra hoặc tổn thất các tài sản hoặc gánh chịu các khoản nợ và làm giảm vốn chủ sở hữu mà không liên quan đến việc phân phối cho các chủ sở hữu. Theo đó, chi phí được xem xét dưới góc độ một khoản mục trên báo cáo tài chính, nó được ghi nhận tuân thủ theo các nguyên tắc kế toán và phải liên quan tới một kỳ kế toán nhất định. Cụ thể:
- Theo hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế IFRS: “Chi phí là sự giảm đi của lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán dưới hình thức dòng ra (hay sự suy giảm) của tài sản hay sự tăng lên của nợ phải trả dẫn đến sự giảm xuống của vốn chủ sở hữu, mà không phải do phân phối của cho chủ sở hữu” (IASB, 2000).
- Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam VAS – Chuẩn mực số 01 “Chuẩn mực chung”: “Chi phí là tổng giá trị các khoản làm giảm lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán dưới hình thức các khoản tiền chi ra, các khoản khấu trừ tài sản hoặc phát sinh khoản nợ dẫn đến làm giảm vốn chủ sở hữu, không bao gồm khoản phân phối cho cổ đông hoặc chủ sở hữu” (Bộ Tài Chính, 2002).
Theo quan điểm kế toán quản trị, do mục đích của kế toán quản trị là cung cấp thông tin thích hợp, hữu ích, kịp thời phục vụ việc ra quyết định của nhà quản trị nên chi phí được nhìn nhận dưới góc độ nhận diện thông tin phục vụ cho quá trình ra quyết định kinh doanh.
Theo Giáo trình kế toán quản trị doanh nghiệp, Trường đại học Thương mại (2020): “Chi phí là biểu hiện bằng tiền của những phí tổn thực tế hoặc ước tính về các nguồn lực mà DN đã bỏ ra hoặc sẽ phải bỏ ra để đạt tới một mục tiêu nhất định”. Bản chất của chi phí là những hao phí phải bỏ ra để đổi lấy sự thu về, có thể thu về dưới dạng vật chất định lượng được như số lượng sản phẩm hoặc thu về dưới dạng tinh thần như được phục vụ.
Theo Giáo trình kế toán quản trị, Trường đại học Kinh tế quốc dân (2014), chi phí được nhận diện cụ thể hơn như sau: “Chi phí có thể là những phí tổn phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh được tổng hợp theo từng bộ phận, từng trung tâm chi phí cũng như xác định hàng tồn kho trong từng khâu của quá trình sản xuất và tiêu thụ” và “chi phí cũng có thể là những phí tổn ước tính hoặc dự kiến trước để thực hiện một hoạt động sản xuất kinh doanh, một hợp đồng kinh tế.” (Nguyễn Ngọc Quang, 2014).
Còn theo tác giả Phạm Văn Dược và Đặng Kim Cương (2007) thì “Chi phí có thể được hiểu là giá trị của một nguồn lực bị tiêu dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức để đạt được một mục đích nào đó”. Như vậy, bản chất của chi phí là nguồn lực bị mất đi để đổi lấy một kết quả. Kết quả có thể dưới dạng vật chất như sản phẩm hàng hóa hoặc không dưới dạng vật chất như kiến thức, dịch vụ được phục vụ…
“Trên thực tế, không thể có một định nghĩa độc lập, chuẩn mực về chi phí bởi lẽ chi phí được tính toán và sử dụng cho những mục đích khác nhau. Tuy nhiên, chi phí có thể được hiểu một cách trừu tượng là biểu hiện bằng tiền của những hao phí về lao động sống và lao động vật hóa phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh; hoặc chi phí là những phí tổn về nguồn lực kinh tế, tài sản cụ thể sử dụng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của DN” (Nguyễn Ngọc Quang, 2014).
Những nhận thức chi phí có thể khác nhau về quan điểm, hình thức thể hiện nhưng tất cả đều thống nhất quan điểm: (i) chi phí là phí tổn tài nguyên, vật chất, lao động, biểu hiện bằng tiền và (ii) phát sinh gắn liền với mục đích sản xuất kinh doanh. Đây chính là bản chất kinh tế của chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DN.
Trong phạm vi luận án, tác giả sẽ nghiên cứu chi phí dưới góc độ của kế toán quản trị và nhận diện chi phí trong loại hình DN mang tính chất điển hình, tổng quát nhất trong nền kinh tế đó là DNSX.
Phân loại chi phí
Để quản trị tốt chi phí, trước hết chi phí cần được chia nhỏ và xem xét một cách đa chiều. Về nguyên tắc, chi phí chia càng nhỏ việc quản lý càng chặt chẽ, càng đa chiều càng hiểu sâu sắc và toàn diện về chi phí, từ đó có biện pháp sử dụng chi phí một cách hiệu quả nhất. Việc chia nhỏ có thể theo nhiều góc độ (theo phạm vi, theo khoản mục, theo ứng xử, theo thẩm quyền ra quyết định…). Đó là lý do chi phí được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau tùy thuộc vào mục đích quản lý chi phí.
Các tiêu thức phân loại chi phí bao gồm: Phân loại chi phí theo khoản mục, phân loại chi phí theo yếu tố, phân loại chi phí theo khả năng quy nạp vào các đối tượng chi phí, phân loại chi phí theo mối quan hệ với mức độ hoạt động… Để phục vụ công tác nghiên cứu các phương pháp xác định chi phí trong DN chúng ta sẽ đi nghiên cứu một số cách phân loại chi phí chủ yếu sau:
(i) Phân loại theo khả năng quy nạp vào đối tượng chi phí
Theo tiêu thức này chi phí bao gồm 2 loại: chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.
Chi phí trực tiếp (Direct cost) là những chi phí liên quan trực tiếp đến từng đối tượng chi phí và được quy nạp trực tiếp cho từng đối tượng chi phí. Việc nhận diện chi phí trực tiếp tùy thuộc vào cách xác định đối tượng tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm của DN. Do chỉ liên quan đến một đối tượng chi phí nhất định nên chi phí trực tiếp có thể được tập hợp một cách dễ dàng và trực tiếp cho từng đối tượng chi phí.
Chi phí gián tiếp (Indirect cost) là các chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí khác nhau mà không thể quy nạp trực tiếp cho từng đối tượng tập hợp chi phí như: chi phí vật liệu phụ, chi phí quản lý phân xưởng... Các chi phí này phải tập hợp theo từng nơi phát sinh chi phí và quy nạp cho từng đối tượng chi phí bằng cách sử dụng phương pháp phân bổ gián tiếp.
(ii) Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động
Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động giúp cho DN có thể xác định rõ vai trò, chức năng của từng khoản mục chi phí trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, là căn cứ để xác định giá thành sản xuất và giá thành toàn bộ đồng thời cung cấp một cách có hệ thống thông tin phục vụ công tác lập các BCTC của DN. Theo tiêu thức này, chi phí trong DN gồm hai loại: chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất. Cụ thể:
Chi phí sản xuất (Manufacturing cost):
Chi phí sản xuất là những khoản chi phí phát sinh tại các phân xưởng (bộ phận) sản xuất gắn liền với các hoạt động sản xuất, chế tạo sản phẩm của DN. Chi phí sản xuất bao gồm 3 khoản mục chi phí cơ bản: Chi phí NVL trực tiếp, chi phí NC trực tiếp và chi phí SXC. Cụ thể:
Chi phí NVL trực tiếp (Direct material cost) là toàn bộ các chi phí về nguyên liệu, vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu được sử dụng trực tiếp để sản xuất, chế tạo sản phẩm, cung cấp dịch vụ. Chi phí NVL trực tiếp thường chiếm tỷ lệ lớn trong tổng giá thành sản phẩm dịch vụ, dễ nhận diện, định lượng chính xác và được hạch toán cho từng đối tượng chi phí như: từng sản phẩm, loại sản phẩm, công trình, hạng mục… Chi phí NVL trực tiếp được tập hợp trực tiếp theo từng loại sản phẩm căn cứ vào chứng từ kế toán và cũng thay đổi tỷ lệ với số lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ.
Chi phí NC trực tiếp (Direct labour cost) là toàn bộ các khoản chi phí phải trả cho NC trực tiếp thực hiện quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm, cung cấp các dịch vụ. Khoản mục chi phí này bao gồm tiền lương, tiền công, các khoản trích theo lương (kinh phí công đoàn, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội . . .), phụ cấp… của NC trực tiếp tham gia quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Cũng giống như chi phí NVL trực tiếp, chi phí NC trực tiếp cũng dễ nhận diện và được ghi nhận, hạch toán cho từng đối tượng chi phí.
Chi phí SXC (Manufacturing overhead cost) là các chi phí phát sinh trong phạm vi các phân xưởng để phục vụ hoặc quản lý quá trình sản xuất sản phẩm. Như vậy chi phí SXC bao gồm tất cả các khoản chi phí sản xuất phát sinh tại phân xưởng sản xuất ngoài hai khoản mục chi phí NVL trực tiếp và chi phí NC trực tiếp. Chi phí SXC bao gồm: chi phí vật liệu phục vụ quá trình sản xuất hoặc quản lý sản xuất, tiền lương và các khoản trích theo lương của nhân viên quản lý phân xưởng, chi phí vật liệu quản lý phân xưởng, chi phí khấu hao nhà xưởng, chi phí dịch vụ mua ngoài phục vụ sản xuất và quản lý ở phân xưởng,… Chi phí SXC là khoản mục chi phí phức tạp bao gồm nhiều yếu tố
chi phí có đặc điểm, tính chất khác nhau, phục vụ cho quá trình sản xuất nhiều đối tượng chi phí khác nhau, khó định lượng, khó xây dựng định mức nên trong quản lý khoản mục chi phí SXC cần phải được chú ý kiểm soát chặt chẽ.
Chi phí ngoài sản xuất (Non-manufacturing cost):
Chi phí ngoài sản xuất là những khoản chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của DN, ngoài quá trình sản xuất. Cụ thể hơn, chi phí ngoài sản xuất bao gồm các khoản chi phí phát sinh trong quá trình thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm và chi cho bộ máy quản lý DN. Chi phí ngoài sản xuất bao gồm 2 khoản mục chi phí đó là chi phí bán hàng và chi phí quản lý DN. Cụ thể:
Chi phí bán hàng là các khoản chi phí liên quan đến việc tổ chức lưu thông và tiếp thị sản phẩm, có tác dụng đưa sản phẩm từ sản xuất đến người tiêu dùng. Ví dụ: chi phí quảng cáo, chi phí giao hàng, chi phí thuê cửa hàng, tiền lương và hoa hồng của bộ phận bán hàng…
Chi phí quản lý DN là các khoản chi phí có liên quan tổ chức hành chính và các hoạt động văn phòng của DN. Ví dụ: chi phí lương của giám đốc và nhân viên các phòng ban quản lý của DN, chi phí khấu hao văn phòng, chi phí điện nước điện thoại phục vụ hoạt động văn phòng…
(iii) Phân loại chi phí theo mối quan hệ với kỳ tính kết quả kinh doanh
Để xác định kết quả kinh doanh, quá trình hoạt động của DN được chia thành các thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm…). Trên cơ sở mối quan hệ của chi phí với kỳ xác định kết quả kinh doanh của DN, chi phí được chia làm 2 loại: chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
Chi phí sản phẩm (Product cost) là những khoản chi phí gắn liền với quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm của DN. Trong DNSX chi phí sản phẩm bao gồm chi phí NVL trực tiếp, chi phí NC trực tiếp và chi phí SXC.
Đặc điềm của chi phí sản phẩm là khi sản phẩm chưa được bán ra thì chi phí sản phẩm được phản ánh trong chỉ tiêu “Hàng tồn kho” trên Bảng cân đối kế toán. Khi sản phẩm được bán ra rồi thì chi phí sản phẩm sẽ được chuyển vào chỉ tiêu “Giá vốn hàng bán” trên Báo cáo kết quả kinh doanh. Do vậy chi phí sản phẩm có thể trài qua nhiều kỳ báo cáo và ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của DN trong nhiều kỳ, đây là lý do mà loại chi phí này luôn gắn liền với rủi ro tiềm tàng từ sự biến động của thị trường. Do đó,
DN cần quản trị tốt khoản chi phí này nhằm vừa đảm bảo nguồn sản phẩm dự trữ sẵn sàng cho mục đích bán vừa tránh sản phẩm tồn kho bị ứ đọng, giảm giá.
Chi phí thời kỳ (Period cost) là những khoản chi phí hoạt động kinh doanh trong kỳ, không tạo nên giá trị hàng tồn kho mà trực tiếp làm giảm lợi nhuận của kỳ mà chúng phát sinh. Chi phí thời kỳ bao gồm chi phí bán hàng và chi phí quản lý DN.
Khác với chi phí sản phẩm, chi phí thời kỳ phát sinh trong kỳ nào thì được ghi nhận và bù đắp ngay trong kỳ đó. Theo quy định, chi phí thời kỳ được ghi nhận trên khoản mục “Chi phí bán hàng” và “Chi phí quản lý DN” trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của DN.
(iv) Phân loại chi phí theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí
Theo cách phân loại này, về bản chất chi phí gồm 3 yếu tố chi phí cơ bản đó là chi phí về lao động sống, chi phí đối tượng lao động và chi phí về tư liệu lao động. Tuy nhiên để cung cấp thông tin về chi phí một cách chi tiết hơn phục vụ yêu cầu quản lý, chi phí được phân loại cụ thể hơn như sau:
Chi phí NVL: Bao gồm toàn bộ chi phí về NVL, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ mà DN đã sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ. Yếu tố chi phí này bao gồm chi phí NVL chính và chi phí NVL phụ.
Chi phí NC: Bao gồm toàn bộ tiền công, tiền lương phải trả, phụ cấp và các khoản trích bảo biểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, kinh phí công đoàn của NC phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của DN trong kỳ.
Chi phí công cụ, dụng cụ: Bao gồm phần giá trị hao mòn của các loại công cụ, dụng cụ trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Chi phí khấu hao tài sản cố định: Bao gồm toàn bộ số tiền tính khấu hao tài sản cố định phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của DN.
Chi phí dịch vụ mua ngoài: Bao gồm toàn bộ số tiền mà DN phải trả cho các dịch vụ bên ngoài đã được sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh như tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại, tiền thuê máy móc thiết bị…
Chi phí bằng tiền khác: Bao gồm toàn bộ các khoản chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của DN ngoài các yếu tố đã kể trên và được thanh toán bằng tiền.