Nâng Cao Hiệu Quả Quản Lý, Giảm Thiểu Chi Phí Trong Quá Trình Sản Xuất, Tăng Cường Sức Cạnh Tranh Cho Các Doanh Nghiệp

- Nhóm dịch vụ giao nhận vận tải và gom hàng liên quan tới toàn bộ dòng lưu chuyển của vật tư và hàng hóa , bao gồm :

+ Ocean/Air freight (vận tải đường biển, đường hàng không): Vận chuyển hàng nguyên container (FCL), hàng lẻ (LCL), hàng không.

+ Dedicated contract carriage (chuyên chở hàng hóa theo hợp đồng chuyên dụng ).

+ Intermodal service (Vận tải đa phương thức).

+ Merge – in – Transit : áp dụng cho các công ty nhập bộ phận hoàn chỉnh từ nhiều nhà cung cấp, công ty Logistics sẽ kết hợp đầu tư vào và đầu ra của dây chuyền cung ứng một cách ăn khớp và hiệu quả, tiến hành lắp ráp thành sản phẩm cuối cùng và giao trực tiếp cho khách hàng .

+ Customer Service (Dịch vụ khách hàng).

- Nhóm dịch vụ sau bán hàng (Aftermarket Logistics ): có thể giúp khách hàng quản lý các yếu tố phát sinh sau giao dịch, bao gồm một số dịch vụ :

+ Return Logistics : quản lý quá trình thu hồi các hàng phế phẩm, tái chế hoặc hủy bỏ giúp khách hàng.

+ Repair Logistics: tiếp nhận và sửa chữa thành phẩm hoặc bộ phận.

+ Revers Logistics: Thiết kế và quản lý dòng vật liệu hoặc thiết bị không sử dụng ngược trở lại dây chuyền cung ứng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 69 trang tài liệu này.

+ Call center: tiếp nhận đơn hàng và đăng ký giao hàng giúp khách hàng

- Dịch vụ Logistics hàng đầu (Lead Logistics Provider): thay mặt khách hàng quản lý toàn bộ chuỗi cung ứng hoặc khi cần thiết thuê lại dịch vụ của một số công ty Logistics khác, khách hàng chỉ phải giao dịch vói một nhà cung cấp dịch vụ duy nhất .

Các vấn đề pháp lý về dịch vụ Logistics tại Việt Nam - 3

3. Vai trò của dịch vụ logistics

3.1 Nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí trong quá trình sản xuất, tăng cường sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp

Logistics giúp giảm chi phí trong sản xuất, quá trình sản xuất kinh doanh tinh giản, hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng cao, từ đó tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường [19]

3.2. Tiết kiệm và giảm chi phí trong hoạt động lưu thông phân phối

Gía cả của hàng hóa bằng giá cả sản xuất cộng với chi phí lưu thông. Chi phí vận tải chiếm một phvài ần không nhỏ trong bộ phận cấu thành giá cả hàng hóa trên thị trường. Theo số liệu thống kê của UNCTAD thì chi phí vận tải đường biển chiếm trung bình 10-15% giá FOB, hay 8-9% giá CIF, mà vận tải là yếu tố quan trọng nhất trong hệ thống logistics vậy nên khi dịch vụ logistics ngày càng hoàn thiện và phát triển nó sẽ tiết kiệm cho chi phí vận tải, góp phần giảm chi phí lưu thông và các chi phí liên quan khác [19]

3.3. Gia tăng giá trị kinh doanh của các doanh nghiệp vận tải giao nhận

Dịch vụ logistics là loại hình dịch vụ có quy mô mở rộng và phức tạp hơn so với hoạt động kinh doanh vận tải thuần túy. Trước đây, việc kinh doanh vận tải chỉ bao gồm hoạt động cung cấp hàng hóa từ tay người bán đến tay người mua. Đến nay, khi kinh tế phát triển với xu hướng toàn cầu hóa, quá trình hình thành sản phẩm có thể trải qua nhiều giai đoạn bởi nhiều quốc gia cùng thực hiện sản xuất, hơn thế nữa xu hướng toàn cầu hóa giữa các nền kinh tế mở giúp sản phẩm có thể tiêu thụ tại nhiều quốc gia, nhiều thị trường. Vậy nên dịch vụ kinh doanh vận tải không chỉ đơn giản dừng lại ở việc vận chuyển sản phẩm từ tay người bán đến tay người mua trong một quốc gia nữa, mà đã phát triển lên một tầm cao mới để phù hợp và phục vụ nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Doanh nghiệp vận tải nay đã cung cấp dịch vụ logistics, từ đó góp phần làm gia tăng giá trị kinh doanh của các doanh nghiệp vận tải. Theo kinh nghiệm ở các nước phát triển cho thấy, thông qua việc sử dụng dịch vụ logistics trọn gói, các doanh nghiệp sản xuất có thể rút ngắn thời gian từ lúc nhận đơn hàng đến lúc giao sản phẩm cho khách từ tối thiểu 5 tháng xuống còn 2 tháng. Hiệu suất kinh doanh của doanh nghiệp vận tải cao gấp 4 lần sản xuất và gấp 2 lần các dịch vụ ngoại thương khác. [19]

3.4. Mở rộng thị trường trong thương mại quốc tế

Để đạt được lợi nhuận tối đa qua thời gian, các doanh nghiệp cần không ngừng mở rộng, phát triển quy mô hoạt động sản xuất cũng như mở rộng thị trường tiêu thụ. Từ đó , dịch vụ logistics trở thành cây cầu nối giữa doanh nghiệp sản xuất và thị trường tiêu thụ mới trong việc chuyển dịch hàng hóa đúng yêu cầu về thời gian

và địa điểm. Sự phát triển của dịch vụ Logistics ảnh hưởng lớn đến việc khai thác và mở rộng quy mô sản xuất của doanh nghiệp [19]

3.5. Góp phần giảm chi phí, hoàn thiện và tiêu chuẩn hóa chứng từ trong kinh doanh quốc tế

Thực tế cho thấy, một giao dịch trong thương mại quốc tế thường liên quan đến chứng từ, giấy tờ. Theo ước tính của Liên Hợp Quốc, chi phí liên quan đến các loại chứng từ, giấy tờ này trên thế giới hàng năm là hơn 420 tỷ USD. Cũng theo nghiên cứu của các chuyên gia, nó chiếm tới hơn 10% kim ngạch mậu dịch quốc tế, ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động thương mại quốc tế. Ngành dịch vụ logistics xuất hiện đã giảm được nhiều chi phí cho các loại chứng từ, giấy tờ kèm theo này thông qua việc nâng cấp và chuẩn hóa chứng từ, giảm khối lượng công việc văn phòng trong lưu thông hàng hóa, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả trong thương mại quốc tế. Ngoài ra, sự phát triển của logistics điện tử trong tương lai sẽ tạo ra cuộc cách mạng trong ngành dịch vụ vận tải, thu hẹp những khó khăn, thách thức về mặt đía lý trong dòng lưu chuyển nguyên vật liệu, hàng hóa. [19]

CHƯƠNG 2. PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS


1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS

So với Điều 9 Luật Thương mại năm 1997 về “ dịch vụ giao nhận hàng hóa “ thì về cơ bạn, Luật Thương mại năm 2005 không có thay đổi nhiều. Tuy về nội dung có điểm đáng lưu ý :

- Đổi tên mục là dịch vụ Logistics .

- Mở rộng khái niệm giao nhận hàng hóa tương đương với khái niệm dịch vụ Logistics .

1.1. Quy định về đăng ký kinh doanh dịch vụ logistics

1.1.1. Điều kiện chung

Thương nhân, doanh nghiệp đăng ký kinh doanh dịch vụ Logistics cũng giống như những thương nhân, doanh nghiệp đăng ký kinh doanh các dịch vụ khác đều phải tuân theo những quy định chung tại chương II Luật doanh nghiệp năm 2014 về “ thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh “ ( Điều 18 và 19 Luật Doanh nghiệp năm 2005 )

1.1.2. Quy định đặc thù

Theo Điều 234 Luật Thương mại năm 2005 quy định về “ Đăng ký kinh doanh dịch vụ Logistics “ :

- Thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics là doanh nghiệp có đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ Logistics theo quy định của pháp luật .

- Chính phủ quy định chi tiết điều kiện kinh doanh dịch vụ Logistics .

Từ những quy định chung đó, Nghị định 140/2007/NĐ – CP đã hướng dẫn cụ thể :

a. Đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics trong nước, điều kiện cụ thể :

+) 1. Là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hợp pháp theo pháp luật Việt Nam ( khoản 1 Điều 5 , 6 và 7 ).

+) Các dịch vụ Logistics chủ yếu, bao gồm : Dịch vụ bốc xếp hàng hóa , bao gồm cả hoạt động bốc xếp container ; dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa , bao gồm cả hoạt động kinh doanh kho bãi container và kho xử lý nguyên liệu , thiết bị ; dịch vụ đại lý vận tải , bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan và lập kế hoạch bốc dỡ hàng hóa ; dịch vụ bổ trợ khác ,bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu

kho và quản lý thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hóa trong suốt cả chuỗi Logistics ; hoạt động xử lý hàng hóa bị khách hàng trả lại, hàng hóa tồn kho , hàng hóa quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hóa đó ; hoạt động cho thuê và thuê mua container (khoản 1 Điều 4 ).

Có đủ phương tiện, thiết bị, công cụ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, kỹ thuật và có đội ngũ nhân viên đáp ứng yêu cầu ( khoản 2 Điều 5 ).

+) Các dịch vụ Logistics liên quan đến vận tải, bao gồm: Dịch vụ vận tải hàng hải; Dịch vụ vận tải thủy nội địa, Dịch vụ vận tải hàng không, Dịch vụ vận tải đường sắt, Dịch vụ vận tải đường bộ, Dịch vụ vận tải đường ống ( khoản 2 Điều 4 )

Tuân thủ các điều kiện về kinh doanh vận tải theo quy định của pháp luật Việt Nam ( khoản 2 Điều 6 ).

Cụm từ “Đăng ký kinh doanh hợp pháp theo pháp luật Việt Nam” được hiểu là doanh nghiệp đó đã tuân thủ những quy định chung về đăng ký kinh doanh theo LDN. Các dịch vụ Logistics chủ yếu và các dịch vụ Logistics liên quan đến vận tải yêu cầu thương nhân phải đáp ứng những điều kiện mang tính đặc trưng của nó. Những dịch vụ Logistics chủ yếu như : dịch vụ bốc xếp hàng hóa, dịch vụ kho bãi và lưu giữ, dịch vụ đại lý vận tải, dịch vụ bổ trợ khác đóng vai trò quan trọng và đặc trưng công việc có liên quan đến kho bãi, bốc dỡ đòi hỏi thương nhân kinh doanh phải có đủ phương tiện, thiết bị chuyên môn để đảm bảo an toàn lao động và bảo đảm cho công việc được thực hiện .[19,25]

b.Đối với những thương nhân nước ngoài .

Thương nhân nước ngoài muốn kinh doanh dịch vụ Logistics phải đáp ứng được các điều kiện Quy định tại khoản 2, 3 Điều 5 và 6 Nghị định số 140/2007/ NĐ-CP.

Từ những quy định dành riêng cho các nhà cung cấp dịch vụ Logistics nước ngoài nêu trên có thể nhận thấy trong quá trình hội nhập, Việt Nam đang mở cửa cho thương nhân nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ này, tuy nhiên vẫn còn những thận trọng thể hiện qua tỷ lệ phần trăm góp vốn còn hạn chế, có những lĩnh vực không được phép đầu tư, mô hình công ty được phép thành lập không toàn diện.[19,25]

Có thể đưa ra một số nguyên nhân như sau :[19,26]

- Do đây là lĩnh vực còn mới ở nước ta nên các doanh nghiệp trong nước chưa có nhiều kinh nghiệm và dày dạn chuyên môn để cạnh tranh, do đó nếu mở cửa hoàn toàn thì khả năng bị các doanh nghiệp nước ngoài lấn át, chiếm lĩnh thị trường là rất cao.

- Sự hạn chế trong hình thức doanh nghiệp cũng là một trong những nguyên nhân. Trong nhiều trường hợp, chỉ cho phép nhà đầu tư nước ngoài thành lập dưới mô hình liên doanh như trường hợp kinh doanh dịch vụ bốc dỡ hàng hóa trong dịch vụ Logistics chủ yếu mà không cho các thương nhân nước ngoài thành lập doanh nghiệp 100% vốn, lý do là để đảm bảo và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước được tham gia vào dịch vụ Logistics .

- Sự hạn chế trong tỷ lệ góp vốn của doanh nghiệp nước ngoài với việc thành lập công ty liên doanh từ 49% đến không quá 51% là nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam không bị lép vế trước doanh nghiệp nước ngoài sở hữu dồi dào cả về nguồn vốn cũng như kinh nghiệm.

- Có những lĩnh vực kinh doanh luật không cho phép đầu tư: không được kinh doanh dịch vụ kiểm định và giấy chứng nhận cho phương tiện vận tải ( điểm a , khoản 2 Điều 7 Nghị định 140/2007/NĐ-CP ). Lý do vì đây là những dịch vụ quan trọng và ảnh hưởng đến quy định của pháp luật, liên quan đến yếu tố chính chị và các chính sách của Nhà nước .

- Logistics hiện tại vẫn còn là một ngành dịch vụ khá mới nên cần có sự bảo trợ của Nhà nước để hỗ trợ doanh nghiệp phát triển và cạnh tranh. Tuy nhiên, việc hạn chế góp vốn khi thành lập các doanh nghiệp liên doanh phần lớn sẽ dần dỡ bỏ kể từ năm 2014 khi Việt Nam đã gia nhập WTO

1.2. Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm các bên trong quan hệ dịch vụ logistics

Bản chất của hoạt động dịch vụ là sự thỏa thuận , bên cạnh quyết định cho các bên quyền tự do thỏa thuận, quyền thỏa thuận áp dụng luật nước ngoài và tập quán thương mại, Luật Thương mại năm 2005 có quy định quyền và nghĩa vụ các bên nếu các bên không thỏa thuận cụ thể. Những quy định khung này là cơ sở để đảm bảo quyền cơ bản của các bên trong quan hệ dịch vụ Logistics được quy định tại mục 2 chương III (Luật Thương mại năm 2005) : Quyền và nghĩa vụ của các bên

trong hoạt động dịch vụ từ Điều 78 đến Điều 87 cụ thể hơn ở mục 4 chương IV “ Dịch vụ Logistics “ từ Điều 235 đến Điều 240.

1.2.1. Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics

Để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán tiền thu lao và các khoản chi phí hợp lý khác, người làm dịch vụ Logistics có quyền cầm giữ và định đoạt hàng hóa. Theo quy định tại Điều 239 Luật Thương mại năm 2005 thì người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa có quyền cầm giữ số hàng hóa để đòi tiền nợ đã đến hạn của khách hàng. Tuy nhiên quyền cầm giữ chi phí phát sinh khi có các điều kiện sau :

- Thứ nhất, khách hàng không thanh toán số nợ đến hạn như khoản thù lao dịch vụ và chi phí hợp lý khác v.v..;

- Thứ hai, chỉ được cầm giữ số lượng hàng hóa có giá trị tương đương với giá trị nợ mà khách hàng chưa thanh toán;

- Thứ ba, người làm dịch vụ phải thông báo bằng văn bản ngay cho khách hàng về việc cầm giữ hàng hóa.

Sau khi cầm giữ hàng hóa 45 ngày kể từ ngày cầm giữ, nếu khách hàng không thanh toán nợ cho người giao nhận hàng hóa thì họ có quyền định đoạt với hàng hóa đó. Nếu hàng hóa có dấu hiệu hư hỏng , quyền định đoạt phát sinh khi có bất cứ khoản nợ nào của khách hàng. Trước khi định đoạt đối với hàng hóa để thu hồi nợ, người cầm giữ phải thông báo cho khách hàng về việc cầm giữ hàng hóa.

Sau khi cầm giữ hàng hóa 45 ngày kể từ ngày cầm giữ, nếu khách hàng không thanh toán nợ cho người giao nhận hàng hóa thì họ có quyền định đoạt phát sinh khi có bất cứ khoản nợ nào của khách hàng. Trước khi định đoạt đối với hàng hóa để thu hồi nợ, người cầm giữ phải thông báo cho khách hàng biết bằng văn bản. Các chi phí liên quan đến việc định đoạt hàng hóa do khách hàng chịu.

Trường hợp cầm giữ và định đoạt sai trái gây thiệt hại cho khách hàng thì người làm dịch vụ phải bồi thường theo quy định pháp luật.

1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng

Với tính chất là một hoạt động dịch vụ quyền của các bên này sẽ tương ứng với trách nhiệm cuả bên kia khi sử dụng dịch vụ Logistics . Nếu không có thỏa thuận khác khách hàng được hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ.

- Hướng dẫn, kiểm tra , giám sát thực hiện hợp đồng;

- Cung cấp đầy đủ chỉ dẫn cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistic ;

- Thông tin chi tiết, đầy đủ, chính xác và kịp thời về hàng hóa cho thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics;

- Đóng gói, ghi ký mã hiệu hàng hóa theo hợp đồng mua bán hàng hóa, trừ trường hợp có thỏa thuận để thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics đảm nhận công việc này;

- Bồi thường thiệt hại, trả các chi phí hợp lý phát sinh cho thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics nếu người đó đã thực hiện đúng chỉ dẫn của mình hoặc trong trường hợp do lỗi của mình gây ra;

- Bồi thường thiệt hại, trả các chi phí hợp lý phát sinh cho thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics nếu người đó đã thực hiện đúng chỉ dẫn của mình hoặc trong trường hợp do lỗi của mình gây ra;

- Thanh toán cho thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics mọi khoản tiền đã đến hạn thanh toán

1. 3. Giới hạn trách nhiệm và các trường hợp miễn trách nhiệm của người làm dịch vụ logistics

Trong quá trình kinh doanh dịch vụ logistics, các chủ thể có thể thực hiện một hoặc một số hoạt động trong chuỗi dịch vụ logistics, chính vì tính chất phức tạp và đòi hỏi nhiều yếu tố kỹ thuật của hoạt động này nên nó tiềm ẩn tính rủi ro cao. Nếu một bên không thực hiện nghiêm túc sẽ làm phát sinh trách nhiệm hợp đồng. Trách nhiệm này có thể là trách nhiệm buộc “bên không thực hiện nghiêm túc” phải thực hiện đúng hợp đồng, bồi thường thiệt hại phát sinh từ vi phạm hợp đồng hoặc chịu phạt hợp đồng hay phải để bên bị vi phạm hủy hợp đồng. Để xác định chính xác trách nhiệm thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics đến đâu trong trường hợp xảy ra tranh chấp giữa các bên cần xem xét các quy định của pháp luật về giới hạn trách nhiệm

1.3.1. Về giới hạn trách nhiệm

Theo khoản 4 Điều 3 Nghị định 140/2007/NĐ-CP thì: “ Giới hạn trách nhiệm là hạn mức tối đa mà thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho khách hàng đối với những tổn thất phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện dịch vụ logistics.

Xem tất cả 69 trang.

Ngày đăng: 19/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí