Kết Cấu Chứa Nhiều Tình Tiết Bất Ngờ

chiếu, tương phản với nhân vật kia mà trong bản thân từng nhân vật lại có sự đối chiếu, tương phản.

Nhân vật trung tâm của truyện là hai anh em sinh đôi Sìu và Du. Vì là sinh đôi nên Sìu với Du có vẻ ngoài "giống nhau như hai cái cày mới cùng một tay người đẽo", đứng cạnh nhau thật khó để nhận ra đâu là Du đâu là Sìu "cùng nước da trắng, tóc quăn tự nhiên, sống mũi gồ". Vẻ ngoài giống nhau là vậy nhưng giữa Du và Sìu vẫn luôn ngầm ẩn hiện những điểm khác nhau: "Du thong thả, ăn diện, mơ đây đó, hám gái từ khi mười lăm tuổi. Sìu mạnh mẽ, nhanh nhẹn, rắn rỏi, mắt hay liếc trộm người". Lớn lên, mục đích sống, cách sống của hai anh em cũng không giống nhau: muốn được đi đây đi đó nên Du đã đi tòng quân; Sìu lại không có mộng ấy, với máu tính toán làm ăn, Sìu đã rời bản theo một số người vào rừng cưa gỗ bán lấy tiền, anh tính khi nhiều tiền sẽ vào Tây Nguyên làm ăn, chứ không ở quê nhà.

Với việc tạo ra sự đối chiếu, tương phản liên tục trong lời nói, hành động giữa hai nhân vật trung tâm, Cao Duy Sơn đã tạo ra được một cốt truyện vô cùng đặc sắc, lý thú, hấp dẫn. Vì thầm yêu chị dâu, Sìu đã không thể kiềm chế ham muốn bản năng của mình để rồi trở thành một kẻ xấu với một việc làm không thể tha thứ được. Trước hành động đó, người đọc sẽ lên án Sìu, bênh vực và cảm thông cho Du; coi những lời nói hằn học, sắc lạnh của Du là lẽ thường của bất kỳ ai rơi vào hoàn cảnh ấy. Nhưng đến tình tiết, diễn biến tiếp theo, suy nghĩ của độc giả có lẽ sẽ có chút thay đổi. Cho rằng mình là người chịu thiệt thòi, người bị hại, để cứu vãn danh dự của bản thân, Du đã nói những lời dằn vặt Lu, đánh Sìu, ép Sìu phải lựa chọn một trong hai con đường mà anh thừa biết dù lựa chọn con đường nào, Sìu cũng phải đối mặt với cái chết. Về phần Sìu, ý thức được tội lỗi của mình, anh cam chịu khi bị Du đánh, chửi; đặc biệt để chuộc lại lỗi lầm và để bảo vệ người con gái bị mình hại, anh đã chấp nhận làm những việc mà Du sắp xếp. Đến đây, trong tâm trí của độc giả lại hiện lên những băn khoăn rằng liệu Du có lạnh lùng quá chăng? Dù sao Sìu cũng là em trai ruột của anh cơ mà? Sao anh có thể dễ dàng, không ngần ngại đẩy em mình đến gần với cái chết như thế? Không còn thái độ lên án, phê phán Sìu như ở đoạn

trước, thay vào đó, người đọc lúc này lại cảm thấy Sìu là một người quân tử, dám làm dám chịu, không để liên lụy đến ai dù cho biết trước đó là cái chết.

Sự tài tình của nhà văn là ở chỗ ông đã khiến cho tâm lý, sự nhìn nhận, đánh giá của độc giả thay đổi liên tục theo từng biến cố, từng tình tiết, từng sự kiện, diễn biến của câu chuyện. Khiến cho độc giả đọc đến tận cuối tác phẩm rồi vẫn không thể đánh giá chính xác nhân vật ai mới thật sự là kẻ xấu, ai mới là người tốt. Thông điệp mà nhà văn muốn truyền tải là tốt - xấu luôn tồn tại song hành cùng nhau, trong cùng một bản thể mà nếu không có cái nhìn toàn diện ta rất dễ đưa ra những đánh giá, nhận xét sai lầm.

Nhìn chung, kiểu cốt truyện thể hiện mối quan hệ đối chiếu, tương phản giữa các nhân vật trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn không phải là phổ biến nhưng nó mang một dấu ấn riêng góp phần làm nên phong cách nghệ thuật truyện ngắn Cao Duy Sơn.

3.2. Kết cấu

Nếu như cốt truyện được coi là "hình thức tổ chức sơ đảng nhất của truyện", thì kết cấu là "Toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động của tác phẩm" tạo ra "hiệu quả tư tưởng thẩm mỹ" [18]. Như vậy có nghĩa là kết cấu là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục của tác phẩm, là sự tổ chức sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung của tác phẩm trên cơ sở đời sống khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng nhất định.

Trong Giáo trình Lý luận văn học, Giáo sư Hà Minh Đức đã định nghĩa "Kết cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật, không tách rời nội dung cuộc sống và tư tưởng tác phẩm" [15]. Với mục đích sáng tác và tư tưởng nghệ thuật riêng, trong các truyện ngắn của mình, nhà văn Cao Duy Sơn chủ yếu sử dụng ba kiểu kết cấu là kết cấu truyện lồng trong truyện, kết cấu mở và kết cấu chứa nhiều tình tiết bất ngờ. Mỗi một kiểu kết cấu lại đem đến cho tác phẩm của ông một hiệu quả nghệ thuật riêng.

3.2.1. Kết cấu truyện lồng truyện

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Khi tiến hành khảo sát toàn bộ truyện ngắn của Cao Duy Sơn chúng tôi thấy có nhiều truyện được bắt đầu từ thời hiện tại. Mở đầu của của chuyện là câu chuyện của ngày hôm nay, từ đó ngược về hôm qua, về quá khứ để kể về hôm qua, về quá khứ. Những câu chuyện như vậy được gọi là câu chuyện thời quá khứ. Như vậy, với kết cấu vòng tròn hiện tại - quá khứ - hiện tại, câu chuyện từ thời hiện tại người kể chuyện kể lại câu chuyện quá khứ, cứ truyện nọ lồng vào truyện kia. Người ta gọi đấy là kiểu truyện gối truyện hay truyện lồng truyện, kể câu chuyện này nhưng vì nó có mối quan hệ mật thiết với câu chuyện khác nên người kể phải kể tiếp.

Có lẽ do nhà văn sử dụng kiểu kết cấu vòng tròn, đảo trật tự thời gian từ thời quá khứ đến thời hiện tại nên khi đọc truyện ngắn Cao Duy Sơn người đọc có cảm giác đó là tiếng vọng của năm tháng, của kí ức dội về, đầy chân thành và gợi cảm. Truyện không chỉ trình bày một câu chuyện thời quá khứ được nhìn từ hiện tại mà thường người kể chuyện cũng là một nhân vật trực tiếp tham gia vào biến cố của câu chuyện hoặc là người chứng kiến, là người trực tiếp được nghe nhân vật chính kể lại.

Phong cách truyện ngắn Cao Duy Sơn - 10

"Tôi" trong truyện ngắn Ngôi nhà xưa bên suối kể lại câu chuyện về những lần sang thăm, những cuộc trò truyện giữa tôi với thầy giáo Hạc. Theo lời kể của tôi thì ngôi nhà của anh với ngôi nhà của thầy giáo Hạc cách nhau một con suối, vì để rút ngắn thời gian đi lại mà anh thường sắn quần lội tắt qua con suối phía sau nhà. Tôi kể lại những lần gặp gỡ, trò chuyện với những câu đùa, những lời tâm sự gần gũi, thân mật và cũng thoang thoảng một nỗi buồn của thầy giáo Hạc. Tuy nhiên câu chuyện này chỉ là phụ, trung tâm lại là một câu chuyện khác - câu chuyện về cuộc đời thầy giáo Hạc. Thầy kể: thầy vốn là người Hà Nội, vì "tuổi trẻ háo hức, muốn cống hiến và tới những miền đất lạ" nên thầy đã tình nguyện lên Mục Mã dạy học. Cuộc đời dạy học của thầy gặp thật nhiều chuyện không hay, tất cả đều xuất phát từ Bền - nàng tiên trong mắt thầy. Vì "nàng

tiên" ấy mà thầy đã bị kỷ luật, bị luân chuyển trường, bị hãm lương, bị đồng nghiệp và học trò hiểu lầm... rồi cuối cùng lại phải nuôi dưỡng đứa con của nàng tiên ấy. Cuộc đời của thầy thật nhiều éo le, lắm chuyện không suôn sẻ. Không lâu sau khi cô Bền để lại đứa con cùng một lá thư nhờ thầy nuôi dưỡng hộ, vợ thầy đã qua đời vì căn bệnh quái ác. Một mình thầy phải bươm chải, gà trống nuôi hai đứa con. Nhưng dù cuộc sống có thiếu thốn, vất vả đến đâu thầy cũng không một lần mà cũng chưa bao giờ có suy nghĩ phân biệt giữa con đẻ với con nuôi. Càng ngày thực phẩm càng khan hiếm, lo cho các con, thầy đã "gom tiền mua được đôi gà mái đẻ. Trong lúc chờ gà đẻ trứng, thầy trồng thêm luống rau và thường nhịn bữa, dành miếng ăn cho các con" [55, tr.26]. Thường xuyên nhịn bữa nên thầy trở lên "gầy và xanh như lá mom". Cuộc sống của thầy cứ thế trôi đi đến tận khi chuyển về dạy tại trường vùng ven thị xã, cuộc sống của thầy mới khá hơn. Thầy gom góp được một số tiền, mua một mảnh đất và dựng lên ngôi nhà bên suối.

Mở đầu truyện ngắn là thời gian hiện tại, từ đó từng câu chuyện trong quá khứ được lần lượt kể lại. Kết thúc tác phẩm lại là thời gian hiện tại với sự kiện cô Bền - nàng tiên năm xưa quay trở lại tìm thầy giáo Hạc để xin lại đứa con gái. Qua câu chuyện, nhà văn Cao Duy Sơn đã khắc họa lên một hình tượng nhân vật vừa có những ưu điểm vừa có những nhược điểm - thầy giáo Hạc mặc dù là một người hiền lành đến nhu nhược, hèn nhát "yêu còn không dám" nhưng cũng là một người thầy có tâm với nghề, đặc biệt là một người cha đáng trân trọng, tràn đầy yêu thương.

Cũng giống như Lý Biên Cương trong kết cấu truyện lồng trong truyện của Cao Duy Sơn, lớp truyện ở thì hiện tại chỉ mang tính chất giới thiệu, bản lề có vai trò như một cái cớ để dẫn dắt người đọc vào câu chuyện trung tâm nằm ở thời quá khứ. Mặc dù giống nhau như vậy nhưng trong việc sử dụng kết cấu truyện lồng trong truyện giữa hai nhà văn này vẫn có điểm khác nhau. Chính điểm khác nhau này đã làm nên những nét riêng, độc đáo, mang dấu ấn cá nhân của từng nhà văn.

Kêt cấu truyện lồng truyện trong truyện ngắn của Lý Biên Cương là kết cấu đa tuyến. Theo đó, cốt truyện thường trình bày một hệ thống sự kiện phức tạp, nhằm tái hiện nhiều bình diện khác nhau của đời sống, tái hiện những con đường diễn biến phức tạp của nhân vật. Kết cấu đa tuyến được biểu hiện ở việc trong một chuyện có nhiều nhân vật, nhiều không gian, nhiều sự kiện. Các sự kiện trong tác phẩm được diễn ra lần lượt hoặc đan cài vào nhau giữa các khoảng không gian. Còn kết cấu truyện lồng truyện trong truyện ngắn Cao Duy Sơn lại là kết cấu đơn tuyến. Trong một chuyện không có nhiều nhân vật, không gian cũng không quá rộng, các sự kiện cũng không phức tạp. Kiểu kết cấu này chính là phản ánh của lối tư duy đơn giản, bản chất mộc mạc, giản dị, chất phác của con người miền núi quê ông.

Ví dụ như trong truyện Gắn bó của Lý Biên Cương, sự kiện trung tâm là khu lò bị cháy, toàn đội gấp gáp tiến hành mọi hoạt động để cứu khu lò. Đan xen với sự kiện trung tâm ấy là hàng loạt các sự kiện khác xảy ra tại cùng thời điểm: kĩ sư Luận nhận được bức thư chia tay từ Nhi - người yêu của anh; hai cha con Hảo gặp nhau cũng trong chính lúc sự việc đang căng thẳng, bề bộn nhất; vợ giám độc Nghiêm vượt cạn một mình; Đạt kiếm có trốn chạy khỏi khu vực lò bị cháy; bác Nhượng cố hết sức cứu lò và bị ngộ độc... Còn trong truyện ngắn Hoa bay cuối trời (Cao Duy Sơn), nhân vật trung tâm là Khơ và Dình, tất cả mọi sự kiện xuất hiện trong tác phẩm đều liên quan, gắn bó chặt chẽ với hai nhân vật này.

Với kết cấu truyện lồng truyện, thời gian truyện có sự thay đổi, đan cài liên tục từ thời gian hiện tại đến thời gian quá khứ rồi lại trở về với thời gian hiện tại. Nhờ đó mà câu chuyện được kể lại một cách linh hoạt, nhẹ nhàng, tự nhiên, không gò bó, gượng ép.

Truyện ngắn Hoa bay cuối trời mở đầu là thời gian hiện tại với cuộc gặp gỡ tình cờ giữa Khơ và Phủ; tiếp đó câu chuyện trở về với thời gian quá khứ - khi mà Khơ còn là một chàng trai khỏe mạnh; rồi cuối cùng lại là thời gian hiện tại với một đám cưới không còn gì có thể đẹp và xúc động hơn.

Với việc sử dụng linh hoạt, có hiệu quả kiểu kết cấu truyện lồng truyện, nhà văn Cao Duy Sơn đã tạo cho các tác phẩm của mình một sự hài hòa vừa đủ, các nhân vật với những biến cố trong cuộc đời, những diễn biến trong tâm trạng cùng với những cung bậc cảm xúc đã được tái hiện một cách tự nhiên, sống động, tác động, gây ấn tượng mạnh đối với bạn đọc.

3.2.2. Kết cấu mở

Kết cấu mở là một trong những kiểu kết cấu mới của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là kiểu kết cấu mà khi kết thúc tác phẩm, câu chuyện vẫn chưa đi đến hồi kết, vẫn còn dang dở. Nhà văn không đưa ra bất kỳ một lời nhận xét, đánh giá hay một nhận định cá nhân nào mà mở ra, gợi ra để cho người đọc tự tưởng tưởng kết thúc của câu chuyện, để rồi tự rút ra bài học, ý nghĩa nhân sinh cho bản thân. Kiểu kết cấu này trong nền văn học hiện đại được đánh giá cao bởi nó làm cho câu chuyện trở lên khách quan, không có cảm giác gượng ép; đặc biệt là khơi gợi được trí tưởng tượng, khả năng tự nhìn nhận, đánh giá sự việc của độc giả.

Sinh ra và lớn lên trên quê hương miền núi nhưng Cao Duy Sơn đã có một khoảng thời gian khá dài sống ở thành thị, được tiếp xúc với những tư tưởng, những lối tư duy, những cách nhìn nhận cuộc sống của con người hiện đại cho nên tư duy nghệ thuật của ông, bên cạnh những nét mang tính truyền thống là những yếu tố mang tính hiện đại sâu sắc.

Kết thúc Chợ tình nhà văn viết: "Từ năm sau cái Nhin bán bún và mọi người ở chợ tình Âu Lâm không còn thấy lão Sinh. Không hiểu lão đi đâu? Dân cùng bản lão nói, từ sau phiên chợ tình hai mươi lăm tháng giêng năm Nhâm Ngọ, không hiểu sao lão Sinh đã đi vào núi Phja Bjoóc và biến mất, chỉ có con ngựa trở về, con ngựa thứ mười lăm lão thay trong cuộc đời của mình" [55, tr.55] Sự biến mất không rõ ràng, cũng không chính xác của lão Sinh đã dấy lên trong lòng người đọc bao dự đoán, bao sự lý giải. Một loạt những câu hỏi được độc giả đặt ra trong lòng: tại sao lão Sinh lại đột nhiên biến mất sau phiên chợ tình hai mươi lăm tháng giêng năm Nhâm Ngọ? lão đã đi đâu? Tại sao lại không nói cho ai biết? Có người nhìn

thấy lão đi vào núi Phja Bjoóc nhưng tại sao lão lại đi vào đó? Tại sao chỉ có con ngựa của lão trở về còn lão lại không? Tự đặt ra câu hỏi rồi tự trả lời. Liệu có phải lão Sinh đã gặp lại ai đó rồi ở lại không về hay lão đã gặp chuyện gì không may mà không thể trở về được... Mỗi độc giả tùy vào sự cảm nhận và tưởng tượng riêng lại có những cách lý giải, giải thích riêng nhưng tựu chung đọng lại trong lòng người đọc là sự cảm phục xen lẫn tiếc nuối về một tình yêu đẹp, chung thủy, sắc son của 2 nhân vật chính.

Truyện ngắn Hòn bi đá màu trắng cũng là một trong những truyện ngắn được nhà văn sử dụng kết cấu mở. Kết thúc tác phẩm là hai tiếng súng nổ "Đùm... đùm!", sau hai tiếng nổ ấy là hình ảnh "Trên cao kia liệu có nhầm không? Đó là con chim ưng, bạn gã. Nó không thể điều chỉnh được cánh bay. Thiên thần tự do của lão đang lao xuống mặt đất. Tim gã thắt lại. Gã chạy đến gỡ nó ra trong một đám cỏ khô. Ức nó vỡ toác" [55, tr.144]. Hình ảnh đó không chỉ tác động mạnh đến nhân vật chính "Gã ngồi bệt đất, thẫn thờ: "thế là hết rồi thiên thần tự do"" mà còn gây ám ảnh sâu sắc trong lòng người đọc. Câu thốt lên của Dồ chứa nhiều tầng ý nghĩa. Chim ưng là loài chim chuyên săn mồi, thức ăn của chúng chủ yếu là động vật; chim ưng được coi là một trong những loài chim bá chủ của bầu trời; nó tượng trưng cho sức mạnh, sự nhanh nhẹn và sự tự do. Đối với Dồ - một người vừa phải đi cải tạo, vừa mất tự do, con chim ưng ấy có một vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong việc nâng đỡ tinh thần Dồ; nó giúp Dồ có thêm niềm tin, niềm hi vọng trong cuộc sống. Giờ đây biểu tượng của sự tự do ấy lại bị bắn chết ngay trước mắt Dồ. Phải chăng đối với những người phải đi cải tạo hoàn lương, sự tự do hoàn toàn không còn tồn tại nữa?

Chi tiết thứ hai buộc người đọc phải suy nghĩ, chiêm nghiệm là "Nhìn đôi mắt như hai hòn bi ve điểm màu xanh, vàng đang chuyển dần sang trắng đục. Thứ màu trắng thật giống với viên bi đá thằng Ki để lại. Gã cảm giác con tim trong ngực đang bị một bàn tay ai đó bóp chặt. Gã thò tay vào túi quần, lấy ra hòn bi nhỏ. Viên bi bỗng tuột khỏi tay, nảy tâng tâng rồi lăn xuống chân đồi. Sợ viên bi sẽ

mất hút trong đồi cỏ mênh mông, gã hốt hoảng chạy đuổi theo như đuổi theo một đứa trẻ đang tìm cách chạy trốn" [55, tr.144]. Tại sao lão Dồ lại coi trọng hòn bi ve đến vậy? Đơn giản chỉ là vì đó là thứ đứa con trai - người thân, chỗ dựa duy nhất của lão để lại. Nó chính là niềm hi vọng sống còn lại của lão. Viên bi tuột khỏi tay lão hay chính gia đình, hạnh phúc đã tuột khỏi tay lão. Lão hoảng hốt chạy đuổi theo hòn bi vì sợ nó sẽ biến mất hay hoảng hốt đuổi theo hạnh phúc gia đình mà lão đã mất kể từ khi phải đi cải tạo hoàn lương.

Chi tiết cuối cùng khi kết thúc truyện "Phía chân núi, bốn gã phường săn đang ngồi nghỉ. Nét mặt bình thản, súng kíp tựa vai, miệng nhả khói thuốc như đám cháy" cũng khiến người đọc không thể bỏ qua. Sự bình thản trên khuôn mặt, trong hành động nhả khói thuộc của bốn gã phường săn đối lập hoàn toàn với sự hoảng hốt, vội vàng, sợ hãi đuổi theo hòn bi của Dồ. Bên cạnh đó, việc so sánh khói thuốc được nhả ra từ miệng những người thợ săn giống như đám cháy cũng đã dự báo một điều không bằng phẳng, hoài hòa, yên ả trong cảm nhận của người đọc.

Mặc dù nhà văn không trực tiếp kể, nói về số phận, hoàn cảnh, cuộc sống của nhân vật Dồ nói riêng, những người sau khi đi cải tạo hoàn lương về nói chung nhưng bằng kết cấu mở với những chi tiết, hình ảnh đắt giá, độc giả hoàn toàn toàn có thể cảm nhận và nhìn ra được số phận, hoàn cảnh của những con người ấy. Hay nói cách khác, hiệu quả nghệ thuật mà kết cấu mở đem lại cho tác phẩm là vô cũng lớn. Nó làm cho cuộc đời, số phận con người miền núi đến với độc giả một cách tự nhiên, chân thật nhất.

3.2.3. Kết cấu chứa nhiều tình tiết bất ngờ

Cùng với kết cấu truyện lồng truyện, kết cấu mở; kết cấu chứa nhiều tình tiết bất ngờ cũng góp phần làm nên phong cách riêng trong nghệ thuật kể chuyện của nhà văn Cao Duy Sơn. Đây cũng là một kiểu kết cấu mới của văn học hiện đại được nhà văn sử dụng triệt để nhằm tái hiện, thể hiện có hiệu quả nhất cuộc sống, số phận cũng như diễn biến phức tạp trong tâm trạng của những con người miền núi.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 29/02/2024