Kinh Nghiệm Phát Triển Nguồn Nhân Lực Phục Vụ Cho Quá Trình Cnh, Hđh Của Một Số Tỉnh Thành Trong Nước .


Để thực hiện chiến lược kinh tế phát triển kinh tế - xã hội từ 2011- 2020 Đại hội đã đề ra 5 quan điểm phát triển:

Thứ nhất, phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong chiến lược.

Thứ hai, đổi mới đồng bộ phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thứ ba, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.

Thứ tư, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ năm, kiên trì xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Để thực hiện tốt các chiến lược đề ra, Đại hội cũng chỉ rõ rằng:

Một là, phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, tiếp tục tạo nền tảng cho một nước công nghiệp và nâng cao khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Ưu tiên phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh thuộc các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, chế biến, công nghiệp năng lượng, luyện kim, hóa chất, công nghệ truyền thông và thông tin.

Hai là, phát triển nông nghiệp toàn diện, hiệu quả, bền vững theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy ưu thế của nền nông nghiệp nhiệt đới gắn với giải quyết tốt các vấn đề nông dân, nông thôn. Khuyến khích tập trung ruộng đất, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn có năng xuất, chất lượng cao, hiệu quả cao. Gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ, mở rộng xuất khẩu. Xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh, giàu đẹp, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người dân.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.


Ba là, phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá trị gia tăng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh như các dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại, du lịch, viễn thông, y tế, giáo dục, khoa học, công nghệ. Hình thành một số trung tâm dịch vụ lớn ở các vùng.

Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh Bình Dương từ 2011 đến năm 2020 - 6

Bốn là, tập trung xây dựng, tạo bước đột phá về kết cấu hạ tầng. Hoàn thiện qui hoạch hệ thống kết cấu hạ tầng cả nước, tập trung nguồn nhân lực xây dựng, hoàn thiện hệ thống giao thông thiết yếu, hiện đại hóa một số sân bay, cảng biển quan trọng. Phát triển đồng bộ, từng bước hiện đại hệ thống thủy lợi; xây dựng, củng cố hệ thống đê biển, các công trình ngăn, xã lũ, hệ thống cung cấp nước sạch, các công trình xữ lý nước thải, bảo vệ môi trường.

Năm là, phát triển hài hòa giữa đô thị và nông thôn. Đẩy mạnh phát triển các vùng kinh tế trọng điểm tạo động lực cho nền kinh tế, đồng thời hỗ trợ phát triển các vùng còn nhiều khó khăn. Hình thành hệ thống đô thị phân bổ hợp lý ở các vùng, phát triển hài hòa giữa thành thị và nông thôn.

1.4.6 Những yêu cầu của quá trình CNH, HĐH

Thứ nhất, tạo nguồn vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật ngày một hiện đại, do vậy cần có nhiều nguồn vốn đề đáp ứng cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Có hai nguồn vốn chính, đó là nguồn vốn trong nước và nguồn vốn bên ngoài.

Nguồn vốn trong nước bao gồm: nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế...vv. Để giải quyết vấn đề tích luỹ vốn trong nước chúng ta phải tăng năng suất lao động xã hội, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước, thực hiện tiết kiệm...vv

Nguồn vốn bên ngoài được huy động từ các nước trên thế giới với nhiều hình thức khác nhau: vốn viện trợ từ các nước, các tổ chức kinh tế xã hội, vốn vay ngắn hạn, dài hạn, nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, đầu tư liên


doanh, liên kết....vv, những biện pháp để tận dụng thu hút nguồn vốn bên ngoài là đẩy mạnh, mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà sản xuất kinh doanh nước ngoài, tranh thủ mọi sự giúp đỡ cúa các tổ chức quốc tế.

Thứ hai, đào tạo nguồn nhân lực cho quá trình CNH, HĐH.

Trong quá trình CNH, HĐH đòi hỏi phải có đầy đủ nguồn nhân lực về số lượng và chất lượng, nguồn nhân lực có chất lượng cao. Do vậy phải đặt nguồn nhân lực vào vị trí trung tâm của sự phát triển giáo dục và đào tạo, đặt giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, có kế hoạch và đầu tư và phát triển nguồn nhân lực đúng và hợp lý, phải bố trí, sử dụng đúng nguồn nhân lực.

Thứ ba, xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ theo yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Khoa học và công nghệ là động lực quan trọng của quá trình CNH, HĐH do vậy cần phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, nắm bắt các công nghệ cao, áp dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất kinh doanh, năng cao năng suất lao động, năng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Do vậy phải tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật sử dụng chuyên gia, cán bộ khoa học một cách hợp lý.

Thứ tư, vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.

Đây là tiền đề quyết định sự thành công của quá trình CNH, HĐH ở nước ta. Công cuộc CNH, HĐH đất nước là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân nhưng phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

1.5 Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình CNH, HĐH của một số tỉnh thành trong nước .

1.5.1 Kinh nghiệm ở Thành phố Hồ Chí Minh


Vấn đề thiếu lao động của Thành phố Hồ Chí Minh xảy ra từ đầu những năm 1995 do nhu cầu phát triển kinh tế, thiếu lao động có trình độ chuyên môn cao và kỹ thuật lành nghề. Thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng nhiều biện pháp để đáp ứng nhu cầu lao động và khắc phục sự thiếu hụt lao động bằng những biện pháp và các chính sách như sau:‌

Một là, tổ chức thu thập, phân tích, dự báo thông tin thị trường lao động nhằm xác định rõ nhu cầu lao động của doanh nghiệp và nhu cầu tìm việc của người lao động để công bố rộng rãi trên các phương tiện đại chúng để người lao động và người sử dụng lao động biết nhau, họ sẽ tự liên kết và chắp nối với nhau.

Hai là, tổ chức và xây dựng các chương trình hướng nghiệp trong tất cả các trường phổ thông, trung học nhằm cung cấp và tạo điều kiện cho các học sinh đều được tiếp cận, học tập để định hướng cho tương lai. Nâng cao số lượng và chất lượng của các trường đại học, cao đẳng nghề, trung cấp chuyên nghiệp, nhà nước có chính sách hỗ trợ kinh phí cho các trường công lập và dân lập để tổ chức đào tạo.

Ba là, xây dựng mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các trường đào tạo nhằm gắn kết trực tiếp ngay từ đầu giữa đào tạo và sử dụng lao động, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, tận dụng thế mạnh của mỗi bên trong quá trình đào tạo.

Bốn là, thực hiện việc sử dụng lao động hợp lý, thường xuyên nâng cao trình độ của người lao động, thăng tiến trong quá trình làm việc. Các doanh nghiệp đều xác định vị trí cho từng công việc và yêu cầu người lao động liên tục học tập để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp. Các tổ chức giáo dục, trường học thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi giữa người sử dụng lao động để tìm hiểu nhu cầu đào tạo đối với người lao động. Đẩy mạnh các hoạt động của trung tâm giới thiệu việc làm đảm bảo các nhu cầu về cung - cầu việc làm được rõ, năng cao năng lực làm việc của cán bộ tại các trung tâm.


1.5.2 Kinh nghiệm ở Đà Nẵng

Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở Đà Nẵng cho thấy đây là một địa phương có kế hoạch phát triển nguồn nhân lực vững chắc có tác động quan trọng đến quá trình tạo dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao. Đà Nẵng là thành phố hàng đầu trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực từ xa thông qua quá trình giáo dục từ phổ thông trung học cho đến khi thạo nghề làm ra sản phẩm. Cách giáo dục này đã tạo dựng nguồn nhân lực sự cần cù lòng kiên trì, bền bỉ, kỷ luật lao động nghiêm, trung thành tận tụy với công việc và gắn bó sống còn với tổ chức mà họ đang làm việc. Hoạt động giáo dục đào tạo được chia thành hai loại; đào tạo tại chỗ và đào tạo bên ngoài xí nghiệp. Trong đó dạng đào tạo vừa học vừa làm giữ vai trò quan trọng nhất.

Sở dĩ Đà Nẵng chú ý loại hình này vì họ cho rằng đây là dạng đào tạo ít tốn kém, người lao động học hỏi ngay trong quá trình làm việc, hơn nữa hoạt động đào tạo tại chỗ có tính linh hoạt cao, có thể điều chỉnh những hoạt động để đáp ứng nhu cầu thực tiễn, đặc điểm và năng lực của từng cá nhân. Hơn thế, đào tạo tại chổ cho phép tập trung sự chú ý trực tiếp vào việc phát triển các kỹ năng cần thiết ngay trong công việc thường ngày của đối tượng được đào tạo.

1.5.3 Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Bình Dương.

Từ những kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở một số tỉnh thành trong nước đã có kinh nghiệm trong việc phát triển và đào tạo nguồn nhân lực chúng ta có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm về việc phát triển và đào tạo nguồn nhân lực sau:

Một là, hoàn thiện hệ thống thông tin cho thị trường lao động. Trước tiên là phải hoàn thiện các chỉ tiêu thông tin trên thị trường lao động, thực hiện qui trình thu thập và phân tích thông tin về thị trường lao động như cung - cầu lao động, phổ biến rộng rãi, kịp thời các thông tin về nguồn lao động và nhu cầu lao động. Tổ chức thực hiện tốt công tác dự báo về nguồn lao động, nhu cầu về sử dụng lao động theo từng năm từng thời kỳ khác nhau, cần xây dựng mạng thông


tin thị trường lao động sử dụng trong toàn quốc và bất cứ doanh nghiệp đang hoạt động, tất cả các người lao động ai muốn khai thác thông tin đều được đáp ứng một cách dễ dàng, nhanh và kịp thời.

Hai là, xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển nguồn nhân lực, cần xác định rõ các mục tiêu, các hoạt động liên quan đến việc phát triển toàn diện cả về mặt số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, nhất là về mặt thể lực, sức khỏe, đào tạo chuyên môn kỹ thuật và tay nghề cho người lao động, ý thức, nhận thức, thái độ, tác phong và sự hợp tác trong công việc của người lao động. Cần thiết phải lập một Hội đồng quốc gia về phát triển nguồn nhân lực bao gồm các đại diện của các tổ chức, các cơ quan có nhiệm vụ và thẩm quyền, và đại diện của người lao động. Việc tổ chức thực hiện cần xác định rõ nhiệm vụ và trách nhiệm của từng ngành từng tổ chức, từng cấp trong việc triển khai các chương trình. Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc quản lý và hỗ trợ tài chính cùng phối hợp với các doanh nghiệp để thực hiện chương trình.

Ba là, tăng cường công tác đào tạo nghề cho người lao động, hoàn thiện hệ thống đào đạo từ bậc phổ thông, đào tạo nghề, đào tạo đại học, xây dựng chương trình hướng nghiệp cho học sinh phổ thông và bắt buộc thực hiện tại các trường, chương trình đào tạo cần thực hiện học đi đôi với thực hành, (lý thuyết 40% thực hành 60%) thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo lại cho người lao động để liên tục đáp ứng nhu cầu của công việc.

Bốn là, phát triển và nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống giới thiệu việc làm. Trung tâm giới thiệu việc làm là cầu nối cực kỳ quan trọng và cần thiết trong việc phát triển thị trường lao động, tổ chức các hoạt động tư vấn, giới thiệu, cung ứng lao động, thông tin lao động và thực hiện các hoạt động giao dịch trên thị trường lao động. Do đó cần phải nâng cao năng lực hoạt động của các trung tâm giới thiệu việc làm về cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động và tạo điều kiện tốt nhất để các trung tâm giới thiệu việc làm hoạt động.

Tóm tắt Chương 1


Luận văn đã phân tích làm sáng tỏ những khái niệm cơ bản về CNH, HĐH, vai trò nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực; những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực; vai trò của nguồn nhân lực đối với quá trình CNH, HĐH và phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời, nêu lên một số bài học kinh nghiệm của các tỉnh thành về phát triển nguồn nhân lực trong quá trình CNH, HĐH và phát triển kinh tế xã hội để vận dụng vào Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng.


CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TỈNH BÌNH DƯƠNG.


2.1 Các nhân tố kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương ảnh hưởng đến sự phát triển nguồn nhân lực và quá trình CNH, HĐH.‌‌

2.1.1. Những đặc điểm về tự nhiên.

Bình Dương là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, được hình thành trên cơ sở tách ra từ tỉnh Sông Bé vào 01/01/1997, phía Bắc giáp tỉnh Bình Phước, phía Nam và Tây nam giáp Thành phố Hồ Chí Minh, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh, phía Đông giáp Đồng Nai. Bình Dương nằm trong vùng chuyển tiếp giữa cao nguyên Nam trung bộ với đồng bằng sông Cửu Long. Địa hình chủ yếu dạng đồi trung bình thấp, nhìn chung tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình 20- 25m so với mực nước biển. Địa chất có tính chịu lực cao thuận lợi cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng và các khu công nghiệp, kết cấu hạ tầng. Đây là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là động lực phát triển kinh tế của phía Nam và cả nước.

2.1.2. Những đặc điểm xã hội.

Dân số tỉnh gồm 1.482.636 người (theo kết quả điều tra dân số 1/4/2009), mật độ dân số 550 người /1km2. Do kinh tế phát triển nhanh, trong thời gian qua thu hút nhiều dân nhập cư từ các địa phương khác. Kết quả điều tra dân số cho thấy trong 10 năm từ 1999 đến 2009 dân số tỉnh Bình Dương tăng gấp đôi, là tỉnh có tốc độ tăng dân số cao nhất nước với tỉ lệ trung bình 7,3%/năm. Bình Dương có 3 thị xã, 12 phường, 4 huyện, 4 thị trấn và 75 xã. Thị xã Thủ Dầu Một là trung tâm hành chính - kinh tế - văn hóa của tỉnh Bình Dương, nằm trên trục lộ giao thông quan trọng.

Trung tâm cách Thành phố Hồ Chí Minh 30 km, cách Biên Hòa 20 km, cách sân bay Long Thành 65-70 km, cách cảnh biển Vũng Tàu 110 km. Hệ thống giao thông nối liền các quốc lộ 1A,13,15, đường Hồ Chí Minh, đường Xuyên Á.... rất thuận lợi cho giao lưu giữa các vùng trong khu vực Đông nam bộ và cả nước.

2.1.3 Tình hình kinh tế

Đánh giá cơ bản về quá trình CNH, HĐH của tỉnh Bình Dương

Xem tất cả 110 trang.

Ngày đăng: 01/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí