Tính Tất Yếu Khách Quan Của Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa


Chỉ số nghèo khổ tổng hợp HPI là chỉ số đo lường các kết quả về xóa đói giảm nghèo, bảo đảm các nhu cầu cơ bản cho tất cả mọi người. Đây cũng là một trong những chỉ số thể hiện nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; bởi giải quyết tốt vấn đề này sẽ là cơ sở để sản xuất và tái sản xuất sức lao động.

Trên đây là những tiêu chí cơ bản đánh giá chất lượng nguồn nhân lực; ngoài ra còn có các chỉ tiêu cụ thể đánh giá từng lĩnh vực, từng khía cạnh cụ thể của đời sống xã hội như: y tế, giáo dục, dinh dưỡng, nước sạch, dân số, môi trường, văn hóa, tội phạm… Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng mỗi chỉ tiêu riêng lẻ chỉ đánh giá trên từng khía cạnh cụ thể, để thấy hết ý nghĩa của nó cần phải có sự phối hợp tổng thể với các chỉ tiêu khác như: HDI,GDI, HPI… Mới đánh giá một cách đầy đủ và chính xác nhất về chỉ số phát triển con người, chất lượng nguồn nhân lực của mỗi quốc gia, trong từng giai đoạn cụ thể theo yêu cầu sự phát triển của kinh tế xã hội.

1.3.3. Thị trường sức lao động.

Đề cập về phát triển nguồn nhân lực trong kinh tế thị trường, không thể không đề cập đến thị trường sức lao động. Đây là một trong những đặc điểm làm thay đổi về chất và lượng việc phát triển nguồn nhân lực gắn với trạng thái chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới WTO.

Nâng cao tính linh hoạt của thị trường sức lao động, tức là tránh những quy định sơ cứng mà cần phải để cho giá cả sức lao động, số lượng, chất lượng sức lao động, cơ cấu lao động tự thích ứng với những thay đổi của thị trường, nâng cao tính linh hoạt của tổ chức sản xuất, chế độ làm việc, phương thức hợp đồng thuê mướn nhân công, trình tự và nội dung thương lượng thỏa thuận giữa giới chủ và giới thợ.

Như chúng ta đều biết thị trường sức lao động ra đời gắn liền với sự ra đời và vận động của một loại hàng hóa đặc biệt hàng hóa sức lao động. Các yếu


tố cơ bản trên thị trường sức lao động trước hết và quan trọng hơn hết là hàng hóa sức lao động, là cung cầu, giá cả sức lao động.

Nguồn cung và cầu về sức lao động thực chất là cung và cầu về nguồn nhân lực được hình thành từ các yếu tố khác nhau. Nguồn cung về nhân lực được hình thành từ các cơ sở đào tạo như các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề và các cơ sở đào tạo khác. Nguồn cung còn được thể hiện từ những người đang tìm việc làm, từ các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức hoặc nguồn cung còn được thể hiện từ nguồn lao động nhập khẩu. Một nguồn cung khác được bổ sung thường xuyên từ những người đến độ tuổi lao động. Đối với nước ta đây là nguồn cung rất lớn với đặc điểm Việt Nam dân số trẻ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

Nguồn cầu về lao động được hình thành từ các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức hoặc từ nhu cầu lao động nhập khẩu của nước ngoài. Sự tác động qua lại của cung cầu hình thành nên giá cả sức lao động, khoản thù lao mà người lao động nhận được phản ánh trạng thái cân bằng trên thị trường sức lao động.

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X chỉ rõ: “ Phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung - cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học nghề, tự tạo và tìm việc làm. Có chính sách ưu đãi các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, nhất là ở khu vực nông thôn. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, đặc biệt là xuất khẩu lao động đã qua đào tạo nghề, lao động nông nghiệp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách tuyển chọn và sử dụng lao động trong khu vực kinh tế nhà nước và bộ máy công quyền” [4. tr 82].

Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh Bình Dương từ 2011 đến năm 2020 - 5

Hệ thống các chính sách xã hội cũng là một trong những nhân tố liên quan đến nguồn nhân lực, đến thị trường sức lao động. Hệ thống các chính sách xã hội nhằm vào mục tiêu vì con người, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, với phương hướng phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, giải quyết tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công


bằng xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với việc chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội.

1.3.4 Những tác động bên ngoài

Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa là xu thế tất yếu và đang diễn ra mạnh mẽ. Những diển biến của kinh tế thế giới và trong khu vực trong thời gan tới tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh Bình Dương nói chung và lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực nói riêng . Bình Dương là một Tỉnh công nghiệp có rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài tham gia đầu tư sản xuất kinh doanh. Tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của Tỉnh về cả chiều rộng lẩn chiều sâu đồng thời đó cũng là những thách thức và những biến động của thế giới ảnh hưởng trực tiếp và nhanh chóng đến Bình Dương.

Mặc khác sự cạnh tranh thu hút sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao giữa các doannh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong Tỉnh cũng là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển nguồn nhân lực.

Sau cuộc khủng hoảng kinh tế 2007-2008 nền kinh tế Việt Nam đang phục hồi trở lại, có tốc độ phát triển mới, tuy nhiên tình trạng thiếu nhân lực chuyên môn, kỹ thuật, nhân tài cho cho các doanh nghiệp vẩn thiếu nhiều. Do đó yêu cầu đáp ứng nguồn nhân lực về số lượng và chất lượng ngày càng cấp thiết hơn.

1.4 Công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

1.4.1 Khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Theo nghĩa chung, khái quát nhất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp.

Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc (UNIDO) đã đưa ra định nghĩa về công nghiệp hoá: “Công nghiệp hoá là quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là một bộ phận chế biến


luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bảo đảm đạt tới sự tiến bộ về kinh tế và xã hội ”.[9; tr.27]. Quan niệm trên cho thấy rằng quá trình CNH bao gồm toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

Hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội theo những qui trình công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến dựa trên sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật tạo ra năng suất lao động cao hơn và hiệu quả hiệu quả.

Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Bảy khóa VII đã khẳng định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng xuất lao động xã hội cao”.[4; tr. 65].

Quan niệm trên cho thấy, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta phải kết hợp chặt chẽ hai nội dung công nghiệp hóa và hiện đại hóa trong quá trình phát triển. Quá trình ấy, không chỉ đơn thuần phát triển công nghiệp mà còn phải chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Quá trình ấy không chỉ tuần tự trải qua các bước cơ giới hóa, tự động hóa, tin học hóa, mà còn sử dụng kết hợp thủ công truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu có thể và mang tính quyết định.

Khái niệm trên về CNH, HĐH của Đảng ta xác định rõ hơn, rộng hơn bao hàm cả về hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội sử dụng các phương tiện, các phương pháp tiên tiến, hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao.

1.4.2 Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa


Mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định có một cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng. Đặc trưng của cơ sở vật chất - kỹ thuật của phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Đặc trưng của cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí hóa. Còn cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình độ khoa học - công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, một quy luật kinh tế mang tính phổ biến và được thực hiện thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đối với các nước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, dù đã có công nghiệp, có cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản tiến bộ đến đâu cũng chỉ là những tiền đề vật chất chứ chưa phải là cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Muốn có cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, các nước phải thực hiện quy luật nói trên bằng cách tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất; tiếp thu vận dụng và phát triển cao hơn những thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất; hình thành cơ cấu kinh tế mới xã hội chủ nghĩa có trình độ cao hơn và tổ chức, sắp xếp lại nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa một cách hợp lý, hiệu quả hơn. Đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội như nước ta, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ đầu, từ không đến có, từ gốc đến ngọn thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Bởi vì, cơ sở vật chất - kỹ thuật là điều kiện trọng yếu nhất, quyết định nhất có liên quan tới sự phát triển về chất đối với lực lượng sản xuất và năng suất lao động xã hội, đối với việc đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội và đối với sự thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội.


1.4.3 Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa


Tạo điều kiện thay đổi về chất của nền sản xuất xã hội, tăng năng suất lao động, tăng sức chế ngự của con người đối với thiên nhiên, tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, góp phần quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.

Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố, tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước, nâng cao năng lực quản lý, khả năng tích lũy và phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập, giúp cho sự phát triển tự do toàn diện của con người trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học - công nghệ phát triển nhanh đạt trình độ tiên tiến hiện đại. Tăng cường lực lượng vật chất - kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh; đảm bảo đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ngày càng được cải thiện. Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế.

Sự phân tích trên cho thấy mối quan hệ gắn bó trực tiếp giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa với lực lượng sản xuất. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là để thực hiện xã hội hóa sản xuất về mặt kinh tế - kỹ thuật theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó có tác dụng, ý nghĩa quan trọng và toàn diện. Vì vậy, Đảng ta xác định: "Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại.. là nhiệm vụ trung tâm",[4; tr. 85] trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.


1.4.4 Quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta

Thứ nhất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố rất quan trọng đối với nền kinh tế và trong quá trình CNH, HĐH.


Thứ hai, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta hiện nay diển ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến trên thế giới.... sớm đưa nước ta tình trạng kém phát triển.

Thứ ba, phát huy nguồn nhân lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.

Trong các yếu tố tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa yếu tố con người luôn được xem là yếu tố quan trọng nhất. Để tăng trưởng kinh tế cần kết hợp năm yếu tố chính: vốn, khoa học công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị, quản lý nhà nước. Để phát triển nguồn lực con con người đáp ứng cho yêu cầu CNH, HĐH cần đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục và đào tạo.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, mọi thành phần kinh tế, trong đó lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lý, đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nguồn nhân lực cho quá trình CNH, HĐH đòi hỏi phải đủ về số lượng và chất lượng, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo ra công nghệ mới.

Thứ tư, khoa học và công nghệ là nền tảng và là động lực của CNH, HĐH. Khoa học, công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, năng cao lợi thế cạnh tranh và tăng tốc độ phát triển của nền kinh tế. Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển và tiềm lực khoa học ở trình độ thấp. Muốn đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phát triển khoa học công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc. Phải đẩy mạnh chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ


trong nước, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới.

Thứ năm, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó trước tiên kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân phát triển văn hoá, giáo dục, y tế rút ngắn khoảng cách giữa các vùng.... sự phát triển nhanh và bền vững quan hệ chặt chẽ với bảo vệ môi trường, bảo vệ mô trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học và đây cũng chính là bảo vệ điều kiện sống của con người.

1.4.5 Những nội dung chính trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.

Thứ nhất, công nghiệp hoá, phải gắn liền với hiện đại hoá.

Thứ hai, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm thực hiện mục tiêu: “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.

Thứ ba, công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức.

Thứ tư, công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.

Thứ năm, công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh toàn cầu kinh tế và Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã nêu rõ chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020 là: “Chiến lược tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nhanh, bền vững; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [6; tr. 30].

Xem tất cả 110 trang.

Ngày đăng: 01/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí