Các Biện Pháp Bảo Đảm Nghĩa Vụ Cấp Dưỡng Nuôi Con

cầu đó là hợp lý, như để giải quyết một số khó khăn trước mắt, ổn định cuộc sống sau khi ly hôn thì cần phải có sự đồng ý của người không trực tiếp nuôi con. Việc xem xét của Tòa án và sự đồng ý của người có nghĩa vụ cấp dưỡng càng trở nên cần thiết khi có lý do để nghi ngờ việc người trực tiếp nuôi con dùng số tiền lớn đó vào một việc không hợp lý. Để đảm bảo một lần nữa cho việc khoản cấp dưỡng một lần đó được sử dụng đúng mục đích, pháp luật quy định: "Theo yêu cầu của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, khoản cấp dưỡng một lần có thể được gửi tại ngân hàng hoặc được giao cho người được cấp dưỡng, người giám hộ của người được cấp dưỡng quản lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác" [4, khoản 3 Điều 18], "người được giao quản lý khoản cấp dưỡng có trách nhiệm bảo quản tài sản đó như đối với tài sản của chính mình và chỉ được trích ra để bảo đảm các nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng" [4, khoản 4 Điều 18]. Quy định về phương thức cấp dưỡng một lần trong những trường hợp đặc biệt nhằm ổn định cuộc sống cho con sau khi cha mẹ ly hôn hoặc đảm bảo ngăn chặn những hành vi trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, đề phòng việc phá tán tài sản… đảm bảo quyền lợi chính đáng cho những người con. Về nguyên tắc, khi thực hiện xong nghĩa vụ này, nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con của người không trực tiếp nuôi con sẽ chấm dứt. Vậy, nếu xẩy ra trường hợp sau khi nhận khoản cấp dưỡng một lần, người con lâm vào tình trạng khó khăn trầm trọng, một mình người trực tiếp nuôi con không thể lo toan được, để đảm bảo quyền lợi cho người con, Điều 19 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định: "Trong trường hợp người được cấp dưỡng một lần lâm vào tình trạng khó khăn trầm trọng do bị tai nạn hoặc bệnh hiểm nghèo, mà người đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng thực tế để cấp dưỡng ở mức cao hơn, thì phải cấp dưỡng bổ sung theo yêu cầu của người được cấp dưỡng" [4]. Như vậy, cũng như các quy định khác của pháp luật về cấp dưỡng, cấp dưỡng bổ sung là một biện pháp rất linh hoạt nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người con, là cơ sở pháp lý quan trọng để người được cấp dưỡng yêu cầu Tòa án đứng ra bảo vệ quyền lợi cho mình.

2.3.3. Các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con

Quy định của pháp luật về nghĩa vụ cấp dưỡng của người không trực tiếp nuôi con là rất quan trọng nhưng việc người đó thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ của mình còn quan trọng hơn. Trên thực tế vẫn có rất nhiều người sau khi ly hôn không thực hiện nghĩa vụ của mình, gây ra khó khăn rất lớn cho người trực tiếp nuôi con và thiệt thòi cho những đứa con. Việc không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống vật chất của con, sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, học tập của con… Nếu như việc thăm nom con, pháp luật không can thiệp được bằng các quy định, các biện pháp cưỡng chế thì ngược lại, để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, pháp luật đưa ra nhiều biện pháp để đảm bảo nghĩa vụ này được thi hành nghiêm túc trên thực tế. Điều 20 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình mà không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì theo yêu cầu của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Tòa án ra quyết định buộc người đó phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Khi nhận được yêu cầu, Tòa án xem xét và ra quyết định buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ của mình và thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người có trực tiếp nuôi con thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì thời điểm đó được tính từ ngày ghi trong bản án, quyết định của Tòa án. Tòa án có thể ra quyết định truy góp số tiền cấp dưỡng trước đây mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng đã trốn tránh khi không đóng góp để nuôi con. Khi đã có quyết định của Tòa án mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng vẫn không thực hiện nghĩa vụ của mình thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó. Và theo quyết định của Tòa án, cơ quan, tổ chức trả tiền lương, tiền công lao động, các thu nhập thường xuyên khác cho người có nghĩa vụ cấp dưỡng có trách nhiệm thực hiện việc khấu trừ khoản cấp dưỡng để chuyển trả cho người được cấp dưỡng theo đúng mức và phương thức cấp dưỡng theo các bên thoả thuận hoặc Toà

án quyết định. Đây là một biện pháp rất hay và bảo đảm được nguồn cấp dưỡng thường xuyên, ổn định. Tuy nhiên, số vụ áp dụng được biện pháp này là không nhiều bởi vì không phải người có nghĩa vụ cấp dưỡng nào cũng có tiền lương, tiền công ổn định, do một tổ chức cụ thể đứng ra chi trả. Hơn nữa, biện pháp này rất khó thi hành ở những tổ chức không phải là cơ quan nhà nước. Vậy đối với những người không có tiền lương tiền công ổn định thì pháp luật đã áp dụng biện pháp nào để bảo vệ quyền lợi cho những đứa con? Pháp luật hôn nhân và gia đình chưa quy định biện pháp cụ thể nhưng theo Luật Thi hành án năm 2009 thì cách giải quyết là áp dụng biện pháp cưỡng chế như kê biên tài sản… Những quy định đó của pháp luật đã tạo cơ sở pháp lý và thực tiễn để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho những người con.‌

Khi có sự vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng, ngoài việc buộc người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của mình, tùy mức độ vi phạm mà người có nghĩa vụ còn phải chịu các biện pháp xử phạt của pháp luật. Nghị định số 110/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình quy định:

Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

1. Từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn; từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa anh, chị, em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu theo quy định của pháp luật;

2. Từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng cha, mẹ; nghĩa vụ cấp dưỡng, chăm sóc con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật [6].

Nếu việc không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng mà gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng thì còn có thể bị xử lý về hình sự theo quy định tại Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tuy nhiên, pháp luật đã tỏ ra rất linh động khi quy định bên không trực tiếp nuôi con trong một số trường hợp không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Đó là trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng một cách tự nguyện và họ thực sự có khả năng tự đảm bảo cuộc sống ổn định về các quyền lợi vật chất cho con. Ngoài ra, theo quy định của pháp luật người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng, họ không được miễn trừ nghĩa vụ cấp dưỡng nhưng trên thực tế họ lại không có khả năng cấp dưỡng thì họ cũng không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Pháp luật không quy định thế nào là không có khả năng thực tế để cấp dưỡng nuôi con nhưng lại có quy định về người có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Theo Khoản 1 Điều 16 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP thì người có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là "người có thu nhập thường xuyên hoặc tuy không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí thông thường cần thiết cho cuộc sống của người đó" [4]. Qua đó, ta có thể hiểu người không có khả năng cấp dưỡng nuôi con là người khi mà toàn bộ thu nhập và tài sản của họ sau khi trừ đi chi phí cần thiết cho cuộc sống của họ thì không còn gì. Khi đó, họ cũng không thể thực hiện được trách nhiệm của mình đối với con. Mặt khác quan hệ cấp dưỡng là một loại quan hệ nhân thân gắn liền với tài sản. Pháp luật quy định: "Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác" [28, khoản 1 Điều 50]. Vì vậy, khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì cũng không còn cách nào khác, nếu buộc họ phải thực hiện thì sẽ không mang tính khả thi và điều luật cũng chỉ mang tính hình thức. Tuy nhiên, việc không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng không phải là vĩnh viễn mà chỉ là trong giai đoạn họ gặp khó khăn. Khi họ đã có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình thì họ phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật. Thậm chí, nếu có khả năng, họ có thể còn phải truy góp thêm một khoản tiền bằng khoản mà trước đây đáng ra họ phải cấp dưỡng cho con.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.

2.4. QUYỀN YÊU CẦU THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI DƯỠNG, GIÁO DỤC CON‌‌‌

Sau khi vợ chồng ly hôn, việc giao con cho ai nuôi phải dựa trên nguyên tắc vì quyền lợi mọi mặt của con. Tất cả những quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đều nhằm mục đích đảm bảo cho con một cuộc sống tốt nhất có thể. Quyền lợi của con, nghĩa vụ của cha mẹ không chỉ xác định tại thời điểm mà cha mẹ ly hôn mà đến khi con thành niên. Vì vậy, sau khi có sự ghi nhận của Tòa án về người trực tiếp nuôi con trong các bản án ly hôn, nếu quyền lợi của con không được đảm bảo thì vấn đề thay đổi người trực tiếp nuôi con sẽ được đặt ra nếu các bên có yêu cầu.

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 - 8

2.4.1. Chủ thể có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con

Điều 93 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc của cả hai bên, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con…" [28].

Việc nuôi dưỡng, giáo dục con cái là quyền cũng như nghĩa vụ của cả cha và mẹ. Tuy nhiên khi cha mẹ ly hôn, quyền và nghĩa vụ này chỉ được thực hiện trực tiếp bởi một trong hai bên cha mẹ. Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không đảm bảo được quyền lợi của các con do mình trực tiếp nuôi dưỡng thì người có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con bao gồm người vợ hoặc chồng không trực tiếp nuôi con và người đang trực tiếp nuôi con.

2.4.2. Điều kiện để Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con

Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, "việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con và phải tính đến nguyện vọng của con, nếu con từ đủ chín tuổi trở lên" [28].

Như vậy, điều kiện đầu tiên để có thể yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con là phải vì lợi ích của con. Tòa án cần xem xét một cách cẩn thận tránh tình trạng những đứa con trở thành vật tranh giành lẫn nhau giữa cha và mẹ để thỏa mãn mong muốn được trực tiếp nuôi con của cả hai người. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con chỉ được thực hiện khi người đang trực tiếp nuôi con không đảm bảo được quyền lợi về mọi mặt cho con. Người không trực tiếp nuôi con không được vì lý do hiện mình có điều kiện tốt hơn mà đòi người đang trực tiếp nuôi con giao con cho mình muôi. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sẽ làm xáo trộn một lần nữa cuộc sống của đứa con, vì vậy, chỉ trong trường hợp thật sự cần thiết thì Tòa án mới chấp nhận yêu cầu đó. Đây là một việc làm hết sức cần thiết không phải mới được quy định mà đã có từ khi Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam ra đời: "Vì lợi ích của con cái, khi cần thiết có thể thay đổi việc nuôi con…" [24, Điều 32].

Cũng như các quyết định khác có liên quan đến quyền lợi của con cái, trong quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, pháp luật cho phép những người con từ đủ chín tuổi trở lên được thể hiện nguyện vọng của mình. Người con sau một thời gian sống cùng người trực tiếp nuôi con đã phần nào cảm nhận được cuộc sống của mình có được đảm bảo một cách tối thiểu không, người trực tiếp nuôi mình có quan tâm, chăm sóc mình chu đáo không… Nhưng dù sao đây cũng chỉ là cái nhìn một phía và thiên về cảm tính nên ý kiến của con không phải là điều kiện quyết định mà chỉ là để Tòa án cân nhắc, suy xét. Đây cũng là một điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

Điều kiện thứ hai để Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con là phải có yêu cầu của một hoặc cả hai bên cha mẹ. Cha mẹ là người quan tâm nhất đến cuộc sống của con cái và họ cũng là người hiểu nhất những nhu cầu của con cái, là người luôn muốn cho con mình có cuộc sống tốt đẹp nhất. Vì vậy, khi cảm thấy cuộc sống của con mình không được đảm bảo thì họ có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con. Nuôi con là trách nhiệm và cũng là quyền của cha mẹ nên chỉ cha mẹ mới có quyền yêu cầu thay đổi

người trực tiếp nuôi con. Tóm lại, sau khi các bên có yêu cầu, Tòa án sẽ căn cứ vào lợi ích của con để quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

2.4.3. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ sau khi thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con

Sau khi thay đổi người trực tiếp nuôi con, vị trí của các bên có sự hoán đổi nên quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên cũng có sự hoán đổi tương ứng. Tòa án sẽ có quyết định và xác định lại quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Người trước đây trực tiếp nuôi con nay lại có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con và quyền thăm nom con. Còn người trước chỉ được gặp con qua những lần thăm nom, nuôi con bằng những khoản cấp dưỡng thì nay lại được hàng ngày chăm sóc, giáo dục con, nuôi con bằng khả năng của mình. Khi xác định lại người trực tiếp nuôi con, Tòa án có thể thay đổi một số nội dung cụ thể trong quyền và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Do điều kiện kinh tế của các bên cha mẹ là khác nhau nên việc thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng có thể dẫn đến sự thay đổi về mức cấp dưỡng; và công việc của mỗi bên là khác nhau nên phương thức cấp dưỡng cũng có thể được thay đổi cho phù hợp với điều kiện của mỗi bên. Quyền thăm nom con vẫn là một quyền cơ bản và không ai có quyền hạn chế quyền này của người không trực tiếp nuôi con trừ khi có quyết định của Tòa án. Trường hợp lý do của việc yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con là vì người trực tiếp nuôi con có những hành vi gây ra hoặc đe dọa gây ra nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, hoặc ảnh hưởng không tốt tới sự hình thành nhân cách của con thì theo yêu cầu, Tòa án có thể hạn chế quyền này của người đã từng trực tiếp nuôi con.

Sau khi thay đổi người trực tiếp nuôi con, các bên có trách nhiệm thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con có thể tiếp tục được thực hiện nếu như việc thay đổi lần trước đã không còn phù hợp. Tuy nhiên trong mọi trường hợp, Tòa án cần xem xét một cách kỹ lưỡng

để cuộc sống của người con không bị xáo trộn và bảo vệ quyền lợi mọi mặt của con.‌


2.5. HẠN CHẾ QUYỀN CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI CON SAU KHI LY HÔN


Bên cạnh những nghĩa vụ của cha mẹ để đảm bảo cho lợi ích của con cái, cha mẹ cũng có những quyền nhất định với con, những quyền này gắn liền với những nghĩa vụ mà pháp luật quy định cha mẹ phải thực hiện đối với con cái. Tuy nhiên, trong trường hợp cha mẹ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ cơ bản đối với con, gây ảnh hưởng đến lợi ích của con cái thì việc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con được pháp luật đặt ra và điều chỉnh. Việc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con không chỉ đặt ra khi hôn nhân của cha mẹ còn tồn tại mà nó còn được thực hiện cả khi cha mẹ đã ly hôn. Hạn chế quyền của cha mẹ đối với con bao gồm hạn chế quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con, đại diện theo pháp luật cho con áp dụng đối với con chưa thành niên.

2.5.1. Căn cứ hạn chế quyền của cha mẹ đối với con


Theo Điều 34 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con, chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích của xã hội. Đó chính là quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con, tồn tại ngay cả khi cha mẹ đã ly hôn. Do đó, nếu cha mẹ có những hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của con được quy định tại Điều 41 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì cha, mẹ vẫn có thể bị hạn chế quyền đối với con. Người cha hoặc mẹ bị hạn chế quyền đối với con có thể là người trực tiếp hoặc là người không trực tiếp nuôi con. Cha mẹ vi phạm quyền và nghĩa vụ đến đâu thì bị hạn chế quyền đến đó. Tuy nhiên pháp luật chỉ quy định hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên.

Xem tất cả 109 trang.

Ngày đăng: 29/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí