Tạo Công Ăn Việc Làm, Giảm Tình Trạng Thất Nghiệp, Nâng Cao Mức Sống Và Chất Lượng Sống Dân Cư


và trên thế giới đã thu hàng tỷ USD mỗi năm thông qua việc phát triển du lịch.

Trong lĩnh vực xuất khẩu, du lịch là hoạt động xuất khẩu có hiệu quả cao nhất. Tính hiệu quả cao trong kinh doanh du lịch thể hiện trước nhất ở chỗ, du lịch là một ngành “xuất khẩu tại chỗ” những hàng hoá công nghiệp, hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, đồ cổ phục chế, nông lâm sản theo giá bán lẻ cao hơn (nếu như bán qua xuất khẩu sẽ theo giá bán buôn). Được trao đổi thông qua con đường du lịch, các hàng hoá được xuất khẩu mà không phải chịu hàng rào thuế quan mậu dịch quốc tế.

Du lịch không chỉ là ngành “xuất khẩu tại chỗ” mà còn là ngành “xuất khẩu vô hình” hàng hoá du lịch. Đó là các cảnh quan thiên nhiên khí hậu và ánh nắng mặt trời vùng nhiệt đới, những giá trị của những di tích lịch sử - văn hoá, tính độc đáo trong truyền thống phong tục tập quán.

Với hai hình thức xuất khẩu trên cho thấy hàng hoá và dịch vụ bán thông qua du lịch đem lại lợi nhuận kinh tế cao hơn, do tiết kiệm được đáng kể các chi phí đóng gói bao bì, bảo quản, vận chuyển, và thuế xuất nhập khẩu có khả năng thu hồi vốn nhanh và lãi suất cao do nhu cầu du lịch là nhu cầu cao cấp có khả năng thanh toán.

Du lịch làm tăng nguồn thu ngân sách cho các địa phương phát triển du lịch. Hoạt động du lịch phát triển, tạo nguồn thu ngân sách cho các địa phương từ các khoản trích nộp ngân sách của các cơ sở du lịch trực thuộc quản lý trực tiếp của dân địa phương và từ các khoản thuế phải nộp của các doanh nghiệp du lịch kinh doanh trên địa bàn.

Đối với lĩnh vực đầu tư cho quá trình phát triển, du lịch có vai trò khuyến khích và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Theo quy luật có tính phổ biến của quá trình chuyển dịch cơ cấu trên thế giới hiện nay, giá trị ngành du lịch ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng sản phẩm xã hội. Do vậy các nhà kinh doanh


đi tìm hiệu quả của đồng vốn, thì du lịch là một lĩnh vực kinh doanh hấp dẫn so với nhiều ngành kinh tế khác. Du lịch đem lại tỷ suất lợi nhuận cao, vì vốn đầu tư vào du lịch tương đối ít so với ngành công nghiệp nặng, giao thông vận tải mà khả năng thu hồi vốn lại nhanh, kỹ thuật không phức tạp, mức độ rủi ro thấp. Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bổ sung thì nhu cầu về vốn đầu tư không lớn như lĩnh vực kinh doanh dịch vụ cơ bản, mà thu hồi vốn nhanh, doanh thu cao lại thu hút được nhiều lao động góp phần giải quyết nhu cầu việc làm, giảm sức ép đối với toàn xã hội.

1.1.3.2. Tạo công ăn việc làm, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao mức sống và chất lượng sống dân cư

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.

Du lịch là một ngành kinh tế dịch vụ, có nhu cầu về lao động cao cả về lao động trực tiếp cũng như lao động gián tiếp. Chính điều này có tác dụng lớn trong việc giảm áp lực trong việc giải quyết công ăn việc làm cho chính phủ, giảm tình trạng thất nghiệp, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Theo như thống kê năm 2005 của thế giới, du lịch là ngành tạo việc làm quan trọng. Tổng số lao động trong các hoạt động liên quan đến du lịch chiếm 10,7% tổng số lao động toàn cầu. Cứ 1,5 giây du lịch tạo ra được một việc làm mới.

Phát triển kinh tế du lịch ở Ba Vì - Hà Nội - 5

Một buồng khách sạn từ 1 sao đến 3 sao trên thế giới hiện nay thu hút khoảng 1,3 lao động trong các dịch vụ chính và khoảng 5 lao động trong các dịch vụ bổ sung. Số lao động cần thiết trong dịch vụ bổ sung có thể tăng lên nhiều lần, nếu các dịch vụ này được nâng cao về chất lượng và phong phú về chủng loại. Theo dự báo của WTO, năm 2010 ngành kinh tế du lịch sẽ tăng thêm khoảng 150 triệu việc làm, chủ yếu tập trung ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương. [7, tr 40-41].


Du lịch cũng phải đóng góp phần nâng cao mức thu nhập, từ đó nâng cao chất lượng sống cho người lao động. Khi du lịch tao ra những cơ hội việc làm cho người lao động thì đồng nghĩa với việc nâng cao mức thu nhập và mức sống cho họ. Thu nhập mà người lao động có được từ du lịch góp phần nuôi sống bản thân họ, gia đình, đồng thời ngày càng nâng cao chất lượng cuộc sống. Giúp cuộc sống người lao động ngày càng no ấm, thoát khỏi tình trạng khó khăn.

1.1.3.3. Góp phần củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế

Du lịch góp phần củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế, cụ thể thông qua các mặt sau:

Một là, để đạt được mục tiêu phát triển ngành kinh tế du lịch, các tổ chức quốc tế mang tính chất chính phủ và phi chính phủ về du lịch đã tác động tích cực với nhau nhờ đó mà hình thành được các mối quan hệ kinh tế.

Hai là, du lịch quốc tế phát triển, nhiều du khách có xu hướng khám phá những miền đất mới lạ, đi đến nhiều điểm du lịch trong một chuyến hành trình của mình. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu đi lại thuận tiện cho quá trình du lịch của du khách mà ngành giao thông quốc tế đã không ngừng quan tâm đầu tư phát triển.

Ba là, du lịch quốc tế như một đầu mối “xuất - nhập khẩu ” ngoại tệ, góp phần làm phát triển quan hệ ngoại hối quốc tế.

Tại Việt Nam, du lịch là cầu nối giao lưu quốc tế có quan hệ chặt chẽ với chính sách mở cửa của Nhà nước. Trong kinh doanh du lịch quốc tế khách du lịch có thể là thương nhân. Mở rộng du lịch quốc tế gắn liền với tăng lượng khách phục vụ, trong đó sự đi lại, tìm hiểu thị trường của khách thương nhân được chú trọng. Từ đó, du lịch thúc đẩy đầu tư, buôn bán quốc tế. Tuy nhiên, điều kiện hiện nay nước ta còn nghèo nàn lạc hậu, thiếu thốn đầu tư. Vì thế, cần thiết phải hiện đại hoá nền kinh tế Việt Nam thì điều đó cần có ý nghĩa to


lớn. Bản thân hoạt động kinh doanh du lịch cũng phát triển theo hướng quốc tế hoá, vì khách du lịch thường đến nhiều nước trong một chuyến đi du lịch dài ngày. Hình thức liên doanh, liên kết ở phạm vi quốc tế trong kinh doanh du lịch là phương thức kinh doanh đem lại lợi nhuận kinh tế cao, đến lượt nó kích thích đầu tư nước ngoài vào du lịch và tăng cường chính sách mở cửa. Thực tiễn phát triển kinh tế ở Thái Lan, Singapo, Malaysia đã chọn du lịch là một hướng mở cửa của nền kinh tế.

1.1.3.4. Thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế khác

Phát triển du lịch có thể kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác, thúc đẩy sự phát triển của ngành kinh tế khu vực.

Trước hết, hoạt động kinh doanh du lịch đòi hỏi sự hỗ trợ liên ngành, yêu cầu về sự hỗ trợ liên ngành là cơ sở cho các ngành khác (như giao thông vận tải, công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, bưu điện, hải quan, điện lực) phát triển, đối với nền sản xuất xã hội du lịch mở ra một thị trường tiêu thụ hàng hoá. Mặt khác, sự phát triển du lịch tạo các điều kiện để khách du lịch tìm hiểu thị trường, ký kết hợp đồng về sản xuất kinh doanh trong nước, tận dụng các cơ sở vật chất - kỹ thuật ở các ngành kinh tế khác.

Phát triển du lịch sẽ mở mang, hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế như mạng lưới giao thông công cộng, mạng lưới điện nước, các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là ở những vùng phát triển du lịch, do xuất hiện nhu cầu đi lại, vận chuyển thông tin liên lạc của khách du lịch, cũng như những điều kiện cần thiết cho cơ sở kinh doanh du lịch hoạt động nên các ngành này phát triển. Ngoài ra, khách không chỉ dừng lại ở điểm du lịch mà trước đó và sau đó khách có nhu cầu đi lại giữa các điểm du lịch, trên cơ sở đó ngành giao thông vận tải phát triển.

Đối với những vùng lạc hậu xa xôi hẻo lánh, kinh tế khó khăn không thích hợp phát triển công nghiệp thì phát triển công nghiệp sẽ có ý nghĩa quan trọng


đến việc xoá đói, giảm nghèo, dần đi tới làm giàu. Đồng thời, sự phát triển của ngành kinh tế du lịch sẽ trực tiếp tăng thu nhập tài chính của nước nơi đón tiếp. Ngoài ra, du lịch phát triển còn “đánh thức” một số ngành sản xuất thủ công mỹ nghệ truyền thống của các dân tộc bởi các lý do sau:

Khách du lịch thường thích mua các đồ lưu niệm mang tính dân tộc, đó là các sản phẩm của các nghề thủ công mỹ nghệ cổ truyền. Nhờ vậy, nghề thủ công mỹ nghệ cổ truyền dân tộc như: nghề khảm, sơn mài, tạc tượng, làm tranh lụa, gốm sứ có điều kiện phục hồi và phát triển.

Mặt khác, khách du lịch văn hoá ngày một đông, họ thường đi thăm quan các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử, văn hóa dân tộc. Vì vậy, việc tôn tạo và bảo dưỡng các di tích đó ngày càng được quan tâm nhiều hơn.

1.1.3.5. Phương tiện tuyên truyền, quảng cáo hữu hiệu cho nước chủ nhà

Về mặt kinh tế: Du lịch là phương tiện tuyên truyền, quảng cáo hữu hiệu cho hàng hoá nội địa ra nước ngoài thông qua du khách. Khách du lịch được làm quen tại chỗ đối với các mặt hàng thủ công, công nghiệp, nông nghiệp … Một số mặt hàng làm du khách hài lòng cả về hình thức lẫn chất lượng … Về đến nước, du khách giới thiệu cho bạn bè người thân … và nhiều khi họ bắt đầu tìm kiếm mặt hàng đó, nhiều khi chính bằng con đường đó quốc gia làm du lịch có điều kiện xuất khẩu hàng hoá nhiều hơn.

Về mặt xã hội: Du lịch là phương tiện tuyên truyền, quảng cáo hữu hiệu cho các thành tựu kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, phong tục tập quán, con người của quốc gia thu hút khách du lịch.

Ngoài ra, du lịch làm tăng thêm tầm hiểu biết chung về xã hội của người dân thông qua người ở địa phương khác, khách nước ngoài (về phong cách sống, ngoại ngữ, thẩm mỹ…) tạo ra sự “giao thoa” về văn hóa giữa các vùng, miền, các dân tộc khác nhau trên thế giới; làm tăng thêm tình đoàn kết, hữu


nghị, mối quan hệ thân ái của nhân dân giữa các vùng với nhau và nhân dân giữa các quốc gia với nhau.

1.2. Phát triển kinh tế du lịch

1.2.1. Khái niệm và nội dung phát triển kinh tế du lịch

1.2.1.1. Khái niệm

*Phát triển kinh tế

Phát triển là một khái niệm dùng để chỉ sự vận động đi lên trong quá trình thay đổi số lượng và chất lượng của quá trình đó theo chiều hướng tiến bộ. Đó là dòng tiến hoá có sự thay đổi mạnh về chất trong nội sinh của một quá trình nhất định.

Một ngành hay một vùng kinh tế đựơc gọi là phát triển thường phải hội tụ đầy đủ mọi sức mạnh của nhiều yếu tố thuận lợi và giữ vai trò mũi nhọn hay trọng điểm trong nền kinh tế quốc gia đó với tỷ trọng lớn về tổng giá trị sản xuất và giá trị sản phẩm hàng hoá xuất khẩu.

Trong tiến trình đi lên của sự phát triển chung, sản xuất công nghiệp là lĩnh vực quyết định đến sự tăng trưởng của cả nền sản xuất xã hội cũng như sự tiến bộ và chuyển đổi phương thức sản xuất. Còn sản xuất nông nghiệp - một ngành sản xuất phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, năng suất lao động còn có những giới hạn nhất định cũng sẽ phát triển di lên, tuy vị trí của nó sẽ ngày càng giảm dần trong nền kinh tế cả nước, nhưng nó lại có những vai trò mới thích ứng với tiến trình thị trường hoá và công nghiệp hoá, giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế trí thức, trước hết là trong việc nâng cao chất lượng đời sống của toàn nhân loại.

Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng: Phát triển kinh tế và chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế là quá trình phát triển của các ngành kinh tế dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi mối quan hệ giữa chúng so với thời kỳ trước đó. Đây là một quá trình mang tính khách


quan bắt nguồn từ sự phát triển của phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất và dưới sự tác động của cách mạng khoa học – công nghệ. Hơn nữa, trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, sự chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế không phải là sự thay đổi sang một cơ cấu kinh tế cùng tính chất, cùng đặc trưng, mà là sự xuất hiện và phát triển một cơ cấu ngành khác hẳn với cơ cấu ngành trước đó – tức là hình thành một cơ cấu ngành kinh tế quốc dân bền vững, hiện đại, có khả năng cạnh tranh cao, mang đặc tính “mở”, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.

Những nhân tố quy định sự phát triển và thay đổi cơ cấu ngành kinh tế không chỉ là sự phân công lao động xã hội, tình hình kinh tế - xã hội trong nước mà còn do sự phân công lao động xã hội quốc tế và khu vực, tình hình kinh tế, chính trị, kể cả tình hình quân sự trong khu vực và quốc tế.

Như vậy, nền kinh tế phát triển và chuyển đổi cơ cấu là sự vận động, phát triển của các ngành kinh tế làm thay đổi vị trí, tương quan tỷ lệ và mối quan hệ, tương tác giữa chúng theo thời gian, dưới tác động của những yếu tố kinh tế - xã hội nhất định của đất nước và quốc tế.

Sự phát triển và chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế ở tầm vĩ mô là kết quả của quá trình vận động, phát triển của bản thân các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hoặc từng phân ngành của chúng dẫn đến sự thay đổi mối tương quan tỷ lệ đã hình thành trước đó cũng như mối quan hệ tương đối ỏn định vốn có của chúng. Sự phát triển và chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế được thể hiện ở những điểm sau:

Thứ nhất: Có sự thay đổi về số lượng và loại ngành trong nền kinh tế, do sự xuất hiện thêm những ngành mới hoặc mất đi một số ngành đã có.

Thứ hai: Có sự tăng trưởng không đồng đều về quy mô và tốc độ tăng trưởng giữa các ngành, dẫn đến sự thay đổi tương quan tỷ lệ, mối quan hệ giữa các ngành so với thời kỳ trước đó. Như vậy cơ cấu ngành kinh tế quốc


dân đã có sự thay đổi. Ngược lại, nếu có sự tăng trưởng đồng đều về quy mô và tốc độ sau một giai đoạn phát triển và duy trì cùng một tương quan tỷ lệ, mối quan hệ giữa các ngành giống như thời kỳ trước đó, thì sẽ không dẫn đến sự thay đổi cơ cấu ngành. Điều này cho thấy, chỉ có xem xét đồng thời cả tốc độ tăng trưởng, quy mô phát triển và tương quan tỷ lệ giữa các ngành trong mỗi thời kỳ so với thời kỳ trước đo mới đánh giá đúng quá trình phát triển và chuyển đổi cơ cấu kinh tế các ngành.

Thứ ba: Có sự thay đổi trong quan hệ tác động qua lại giữa các ngành, được thể hiện bằng số lượng các ngành có liên quan lẫn nhau, thể hiện qua quy mô đầu vào mà các ngành này cung cấp chi các ngành kia và ngược lại ngành kia nhận được từ các ngành này. Đây là sự thay đổi về mặt chất lượng cơ cấu ngành, nó liên quan đến thay đổi quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm.

*Phát triển kinh tế du lịch

Mặc dù hoạt động du lịch đã có nguồn gốc hình thành và phát triển từ lâu, kinh tế du lịch đã và đang được nhiều nước quan tâm đầu tư phát triển, nhưng để có một khái niệm hoàn chỉnh về phát triển kinh tế du lịch là một vấn đề khó, cần phải có luận cứ xác thực. Bởi vì trong lĩnh vực phát triển của mình, kinh tế du lịch phụ thuộc rất nhiều yếu tố, ngoài việc chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế nói chung, do đặc thù của ngành, nó còn có cơ chế vận hành riêng.

Trên thực tế phát triển kinh tế du lịch, ở nhiều nước không những đem lại lợi ích kinh tế, mà còn cả lợi ích chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường, an ninh quốc gia… Ở mỗi quốc gia, dân tộc có tính đặc thù riêng, phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mục đích, tính chất của quan hệ sản xuất và quan niệm hay cơ chế, chính sách, quy hoạch chiến lược phát triển, chế độ chính trị, xã hội của mỗi nước, cho nên trong nghiên cứu tất yếu có

Xem tất cả 143 trang.

Ngày đăng: 06/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí