Khái Quát Tình Hình Ngành Ngân Hàng Tại Việt Nam


Mỹ

Cuộc

Tại khối ngành ngân hàng Mỹ, tham vọng đứng đầu ngành ngân hàng nội địa của là động lực khiến Bank of America mua lại Merrill Lynch với giá 50 tỷ USD. sáp nhập này đã cho ra đời tập đoàn tài chính hùng mạnh nhất thế giới. Theo đó,

Bank of America đã trở thành ngân hàng thương mại lớn nhất tại Mỹ tính theo lượng tiền gửi và lượng vốn hóa thị trường và là ngân hàng thành viên thuộc tập đoàn bảo hiểm tiền gửi Mỹ (FDIC). Qua đây, Bank of America thu tới 90% lợi nhuận từ thị trường nội địa nước Mỹ. Trước đó, với mục tiêu chính của là luôn đứng đầu tại ngành ngân hàng nội địa Mỹ, Bank of America đã thông qua hàng loạt thương vụ thâu tóm trong đó có việc mua lại chi nhánh ngân hàng ABN Amro tại Bắc Mỹ và tập đoàn ngân hàng tài chính Lasalle với trị giá 21 tỷ đô la Mỹ, mua lại đại gia thẻ tín dụng MBNA với giá 35 tỷ.

Bên cạnh Bank of America, thương vụ mua lại của Wells-Fargo với ngân hàng Wachovia với giá trị 15,1 tỷ đô la Mỹ cũng là một thương vụ M&A đình đám trên thế giới. Sau khi vượt qua được đối thủ Citigroup trong thương vụ cạnh tranh mua lại Wachovia, Wells Fargo đã nâng tầm của mình lên ngang hàng với các đối thủ ngân hàng lớn khác tại Mỹ như JP Morgan Chase và Bank of America. Theo đó, ngân hàng này sẽ có tài sản 1.420 tỷ đô la và trở thành ngân hàng lớn thứ ba của Mỹ. [21]

Ở châu Á, thương vụ M&A tiêu biểu có thể phải kể đến sự ra đời của Mitsubishi UFJ Financial Group là kết quả của sự sáp nhập giữa hai ngân hàng UFJ Holding và Mitsubishi Tokyo Financial Group. Đại ngân hàng này đã chính thức được thành lập và đi vào hoạt động vào 01/10/2005. Mitsubishi UFJ Financial group giờ đã trở thành một trong những tập đoàn tài chính hùng mạnh nhất thế giới có số vốn lên tới 1.770 tỷ USD với 40 triệu khách hàng, vượt qua ngân hàng Citigroup của Mỹ về giá trị tài sản. Các nhà phân tích cho rằng việc sáp nhập này thể hiện sự hồi phục của ngành ngân hàng Nhật Bản sau thời gian nợ nần chồng chất.

Một số thương vụ sáp nhập và mua lại thất bại

Thất bại do dàm phán: Khi nhắc đến những cuộc thương lượng thất bại có thể nói về việc sáp nhập hai tổ chức tài chính hàng đầu của Ðức là Deutsche Bank và Dresdner Bank. Tảng đá cản trở chính là hãng đầu tư Dresdner Kleinwort Benson – công ty con của Dresdner Bank và có hệ thống chi nhánh lớn ở châu Âu. Deutsche Bank cho rằng, đối tác cần phải gạt bỏ chi nhánh này. Tuy nhiên, Dresdner Bank kiên quyết chống lại, họ cho rằng, việc bán ngân hàng theo từng phần có nghĩa là loại đi một phần có giá trị trước khi có được sự đảm bảo về quá trình hợp nhất. Ðại diện của Dresdner Bank bình luận tình hình như sau: “Nếu như chúng tôi lựa chọn giải pháp do phía Deutsche Bank đề nghị thì sẽ có sự “đổ máu”, và kết quả là thương vụ đã thất bại.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.


31

Phát triển hoạt động mua bán - sáp nhập ngân hàng tại Việt Nam - 6

Thất bại do không có chiến lược quản lý nhân sự: điển hình là trường hợp sáp nhập giữa Nations Bank- Bank of America và Montgomery Securities vào tháng 10/1997. Việc sáp nhập đã dẫn đến sự nghỉ việc của hầu hết những chuyên viên đầu tư của Montgomery Securities, những người đã rời khỏi công ty do những bất đồng về quản lý và văn hoá với NationsBank-Bank of America. Nhiều người trong số họ chuyển sang làm cho Thomas Weisel, đối thủ của Montgomery Securities, được điều hành bởi người chủ cũ của Montgomery Securities. Montgomery Securities không thể lấy lại vị thế cũ của nó.

Kinh nghiệm từ chính sách quản lý hoạt động M&A của các nước trên thế giới

Nhìn chung, các thương vụ M&A của các ngân hàng tiêu biểu trên thế giới đều đem lại hiệu quả tốt, giúp các tổ chức tài chính vượt qua được khó khăn và nâng tầm hoạt động của mình lên các vị thế mới. Tuy nhiên có thể thấy được rằng, sự thành công của các thương vụ M&A trên được quyết định rất lớn bởi trình độ quản lý, kinh nghiệm hoạt động, sự minh bạch rõ ràng của hệ thống luật pháp cũng như các chính sách mà ngân hàng trung ương ở các nước này thực hiện. Đây cũng chính là các yếu tố mà các quốc gia đang phát triển như Việt Nam cần lưu ý khi thực hiện M&A ngân hàng.

Kinh nghiệm của Mỹ

Hoạt động M&A ngân hàng được giao cho Bảo hiểm tiền gửi Hoa Kỳ (FDIC). FDIC được thành lập năm 1993 sau khủng hoảng tài chính đầu thế kỷ XX theo sắc lệnh của Tổng thống Franklin D. Roosevelt. FDIC hoạt động theo Luật bảo hiểm tiền gửi (Federal Deposit Insurance Act) ban hành năm 1993. Ðây là tổ chức bảo hiểm tiền gửi đầu tiên trên thế giới. FDIC hoạt động độc lập với Chính phủ và chịu sự kiểm soát trực tiếp của Quốc Hội. Với mục tiêu chủ động giải quyết nhanh các vụ M&A đạt hiệu quả cho xã hội và nền kinh tế, Quốc hội dành cho FDIC những thẩm quyền đặc biệt để đạt được mục tiêu đó (bất kể luật pháp có quy định khác) được phép toàn quyền tiếp nhận và thanh lý tài sản của tổ chức nhận tiền gửi thuộc diện M&A mà không chịu sự chi phối của cổ đông, Tòa án các cấp hay các cơ quan kiểm soát khác [22].

FDIC đảm bảo thực hiện bốn nguyên tắc cơ bản trong hoạt động M&A, đó là:

Các ngân hàng thuộc diện M&A được xử lý với chi phí thấp nhất.

Thực hiện M&A nhanh nhất.

Tài sản tiếp nhận được quản lý và đưa ra thị trường để bán với giá trị cao nhất (bán cho khu vực kinh tế tư nhân).

Tiền gửi và các nghĩa vụ trả nợ khác được xử lý công bằng và tiết kiệm. 32


FDI

một

Hoạt động M&A được bắt đầu kể từ khi cơ quan cấp phép gửi thư thông báo cho C về kế hoạch M&A và chỉ định FDIC là người thực hiện. FDIC sẽ dàn xếp để hoặc một số ngân hàng “khỏe” chấp nhận mua lại một phần hay toàn bộ tài sản

của ngân hàng thuộc diện M&A và tiếp nhận các nghĩa vụ nợ của tổ chức đó. Từ năm 1980 đến 1994, 1.188 trong số 1.617 trường hợp đổ vỡ (tương đương 73,5%) được FDIC xử lý theo phương pháp mua và tiếp nhận nợ. Trong đó, giai đoạn khủng hoảng lớn nhất 1987-1994, thông qua 34 ngân hàng cầu nối, FDIC đã xử lý êm thấm 114 ngân hàng với tổng tài sản 89,9 tỷ USD. Trong năm 2008, FDIC đã tiến hành M&A đối với 25 ngân hàng trong đó có trường hợp tiêu biểu là Ngân hàng Indy Mac.

Kinh nghiệm của Ðài Loan

Qua nghiên cứu hệ thống ngân hàng của Ðài Loan cho thấy, xét về cơ cấu, hệ thống tài chính Ðài Loan khá giống với hệ thống tài chính của Việt nam, dù mức độ mở cửa lớn và sớm hơn nhiều. Ngành ngân hàng Ðài Loan đã phát triển mạnh mẽ về số lượng, với đỉnh điểm năm 2001 lên tới 53 ngân hàng nội địa, mật độ ngân hàng tại Ðài Bắc trên một vạn dân là 3,4 chi nhánh. Trong khi đó, mức độ tập trung thị phần của 5 ngân hàng lớn nhất Ðài Loan chỉ vào khoảng 38,5% so với mức độ trung bình 60% của các thị trường tương tự trên thế giới. Sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng cung cấp những dịch vụ tương đối giống nhau dẫn đến kết cục nhiều tài khoản ngân hàng được mở mà không có giao dịch, lợi nhuận biên ngành ngân hàng bị giảm sút, các khoản nợ quá hạn, nợ xấu làm xói mòn tài sản của các ngân hàng. Số ngân hàng bị thua lỗ ăn vào vốn chủ sở hữu lên đến hơn 10% vào cuối năm 2002.

Ðể cải tổ hệ thống ngân hàng của mình, Ðài Loan phải thực hiện giảm số lượng các ngân hàng thương mại và tập đoàn tài chính và tăng quy mô của các tổ chức tín dụng bằng cách thúc đẩy nhanh quá trình mua bán và sáp nhập. Các biện pháp chính được thực hiện là: tăng thêm các luật và quy định về tài chính (tiếp theo luật sáp nhập các tổ chức tài chính năm 2000, năm 2001 Ðài Loan đã thông qua Luật tập đoàn tài chính), thành lập các công ty quản lý tài sản để xử lý nhanh những khoản nợ xấu và chuẩn hóa các tiêu chuẩn về phân loại nợ xấu và trích dự phòng rủi ro theo tiêu chuẩn quốc tế (có hiệu lực từ 2005). Tháng 7/2004, Ðài Loan đã thành lập Ủy ban giám sát tài chính FSC trên cơ sở hợp nhất chức năng giám sát ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm trước đây được đảm nhiệm bởi bộ Tài chính, NHNN và cơ quan Bảo hiểm tiển gửi Trung Uong. Một trong những chức năng cơ bản của FSC là giám sát và điều hành quá trình mua bán và sáp nhập các định chế tài chính một cách tập trung và thống nhất thay cho hệ thống giám sát tài chính phân tán trước đây.

Kết quả là số lượng các ngân hàng đã giảm từ 53 (năm 2001) xuống 7 (tháng 7/2008), chất lượng hoạt động của hệ thống ngân hàng được cải thiện, tỷ lệ nợ xấu

33

hiện chỉ còn 1,8% so với 11,3% năm 2001, hệ số CAR theo tiêu chuẩn quốc tế của các ngân hàng Ðài Loan đạt 11,7%.

Kinh nghiệm của Trung Quốc

Từ 1995 đến 1998, hơn 2000 hợp tác xã tín dụng thành thị được sáp nhập vào 88 NHTM cấp thành phố theo các nguyên tắc: đánh giá tài sản và vốn, xóa các khoản nợ xấu, ước tính khoản vốn đóng góp ròng và khuyến khích sự tham gia của các cổ đông mới. Tuy nhiên, giải pháp này vẫn chưa có trường hợp nào thành công. Do hoạt động yếu kém của các hợp tác xã tín dụng thành thị trước đó, 88 NHTM mới đã có khoản nợ xấu lớn và bị thua lỗ nặng nề, và một số rơi vào tình trạng khủng hoảng thanh toán. Để giảm thiểu rủi ro, Chính phủ đã thực hiện kế hoạch cắt giảm số lượng NHTM cấp thành phố từ 239 xuống còn 60 thông qua biện pháp sáp nhập [23].

1.3.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

Cần có thông tin và kinh nghiệm cần thiết để nhận diện bên mua tiềm năng

Bên bán cần thực hiện nhận diện một cách cụ thể bên mua tiềm năng một cách đầy đủ trước khi thực hiện hoạt động sáp nhập và mua lại. Cần phải xác định bên mua về khả năng tài chính, kế hoạch đầu tư, có mục tiêu và thoái đầu tư cụ thể, có kinh nghiệm chuyên môn, có lượng thông tin thị trường và các phân tích cần thiết. Bên bán cần hiểu biết rõ ràng và đầy đủ về động cơ giá trị của bên mua để trợ giúp bên bán tham gia vào tiến trình giao dịch một cách tự tin và thực hiện các bước công đoạn hiệu quả nhất. Hơn thế nữa bên bán sẽ có được sự kiểm soát rủi ro tốt hơn từ phía mình.

Không hiếm khi ngay sau thông báo về kế hoạch mua, giá cổ phiếu của công ty bắt đầu giảm xuống. Đây là thước đo cho thấy rằng thị trường coi việc sáp nhập là sai lầm. Các bên cũng cần cẩn trọng với sáp nhập với công ty ngang hàng vì khi đó sẽ có nhiều trở ngại khi một bên phải chấp nhận các hành động, chính sách hay con người của bên kia.

Có kế hoạch hợp lý cho việc sáp nhập và mua lại để tận dụng cơ hội khi thực hiện giao dịch

Ngoại trừ một số bên bán tiềm năng có được sự tư vấn ngay từ đầu, không ít bên bán trước khi đi tới quyết định về giao dịch, ra sức củng cố công ty mình với hi vọng tài sản hay vốn sẽ được mua với giá cao hơn và giao dịch được thực hiện thuận lợi hơn. Điều này là cần thiết để hướng ngân hàng tới một vị thế giá trị mới hay nói cách khác, ngân hàng sẽ có một nền tảng định giá tốt hơn. Tuy nhiên những cải thiện và thay đổi thường cần nhiều thời gian để thành công. Trong khi đó, cơ hội nắm bắt được bên mua tiềm năng thực sự không phải quá nhiều.


34



công

qua

Bên bán cần có một kế hoạch khi muốn thực hiện một giao dịch và phân bố các việc cần làm trong từng thời gian cụ thể, xác định những việc cần thực hiện, bỏ những công việc không thực sự cần thiết để tận dụng thời điểm kiếm được bên

mua tiềm năng.

Cần sử dụng đội ngũ tư vấn và có tính hợp tác để có một mức giá hợp lý cho cả hai bên mua và bán

Định giá về lý thuyết, được xem là cơ sở lý luận cần thiết để xúc tiến một giao dịch tài chính. Tuy nhiên tùy vào tình hình thị trường mà ảnh hưởng của kết quả định giá có thể được xem xét ở các mức độ quan trọng khác nhau.

Không tồn tại phương pháp tài chính hoàn hảo nào tính toán lợi ích việc sáp nhập. Phương pháp quy đổi dòng tiền tương lai thường hay được sử dụng nhưng phức tạp và đôi khi không chính xác. Ngoài ra, còn những sai lầm trong công tác đánh giá tài sản và các khoản nợ.

Nếu các thỏa thuận chịu nhiều sức ép lớn khi phải cạnh tranh với nhiều đối thủ khác cũng muốn mua lại thường bên mua bắt đầu nhượng bộ. Đến khi các thỏa thuận được hoàn tất, bên bán bỗng nhiên có nhiều lợi ích và quyền hạn, giá của người chiến thắng thường cao hơn so với giá thực tế. Về mặt lý thuyết, hiệu quả đạt được trong M&A là do sự tiết kiệm nhờ quy mô. Tuy nhiên, trên thực tế đôi khi ngược lại: điều hành một tập đoàn lớn với nhiều chi nhánh lại phức tạp hơn, và như vậy, đội ngũ cán bộ quản lý lại lớn và cồng kềnh hơn.

Tìm hiểu kỹ vấn đề pháp lý trước khi thực hiện giao dịch

Khi tiến hành sáp nhập, bên mua phải đối mặt với những vấn đề khá phức tạp như các quy định của luật pháp về độc quyền, thuế, kế toán, chuyển đổi tài sản, trách nhiệm giải quyết các khoản nợ chưa thanh toán, phân chia lợi nhuận, tính toán các vấn đề hậu sáp nhập làm sao cho giá trị ngân hàng ngày càng tăng để hấp dẫn nhà đầu tư. Nếu không phân tích kỹ các vấn đề trên và các yếu tố pháp lý đi kèm thì nguy cơ thất bại cao.

Một số nước, khi sáp nhập các công ty có tổng giá trị tài sản lớn hoặc chiếm một thị phần lớn sau khi sáp nhập thì cần phải có sự đồng ý của chính phủ do luật về chống độc quyền. Nếu như công ty vi phạm quy định này, nó sẽ bị xử phạt. Ngoài ra, chính phủ có thể đưa ra những khuôn khổ hoạt động của công ty trên thị trường, và do vậy có khi không đem lại lợi ích từ sáp nhập và mua lại hoặc thậm chí đòi hỏi hủy bỏ hợp đồng thông qua tòa án. Những thay đổi chủ quan hoặc khách quan từ bên mua, thị trường hoặc môi trường pháp lý có thể ảnh hưởng trực tiếp tới tiến trình của giao dịch.

Chuẩn bị các vấn đề hậu sáp nhập và mua lại để có một thương vụ thành công


35

Quá trình hòa nhập các hoạt động kinh doanh, các bộ phận chức năng của các bên sau khi kết thúc một thương vụ sáp nhập và mua lại có thể xảy ra một số vấn đề mà hai bên càn chuẩn bị trước để mang đến hiệu quả cho một thương vụ. Các bên chưa coi trọng thế mạnh sản phẩm, dịch vụ của nhau, hoặc không chuyển giao đầy đủ kỹ năng, thế mạnh của từng bên.

Việc không dung hợp giữa các nền văn hóa giữa các ngân hàng đôi khi chính là nguyên nhân thất bại của nhiều cuộc sáp nhập. Các nhà quản lý bên mua thường mắc một sai lầm lớn khi tự cho mình nhiều quyền hạn hơn trong việc áp đặt sự giám sát khắt khe đôi khi hơi thái quá của mình đối với bên bán.



36



CH

ƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG MUA BÁN – SÁP NHẬP NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM

2.1. Khái quát tình hình ngành ngân hàng tại Việt Nam

Giai đoạn 2011 - 2015, ngành Ngân hàng đạt được những thành tựu nổi bật, góp phần tích cực vào ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng và được Nhà nước, Chính phủ, dư luận trong nước và quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Để có được những kết quả trên, trong suốt 5 năm qua ngành Ngân hàng đã phải trải qua quá trình nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức.

Năm 2011, kinh tế Việt Nam và hệ thống ngân hàng đứng trước nhiều thử thách do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu và những bất cập nội tại nền kinh tế như lạm phát tăng cao (18,13%); lãi suất cho vay lên tới 20 - 25%; thanh khoản của hệ thống tổ chức tín dụng thiếu hụt nghiêm trọng, lãi suất liên ngân hàng tăng cao, có thời điểm lên đến trên 30%/năm, tiềm ẩn nguy cơ đổ vỡ hệ thống, các tỷ lệ an toàn vốn của từng ngân hàng và toàn hệ thống sụt giảm...

Bám sát chủ trương của Chính phủ và diễn biến kinh tế vĩ mô, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chỉ đạo, điều hành, phát huy sự chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm toàn Ngành, tăng cường sự gắn kết với các Bộ, ngành và địa phương nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp thực hiện nhiệm vụ được giao.

Theo đó, trong giai đoạn 2011 - 2015, NHNN đã giảm mạnh mặt bằng lãi suất huy động và cho vay, từ tháng 9/2011 NHNN chủ động công bố mục tiêu giảm lãi suất cho vay xuống còn 17 - 19% vào cuối năm 2011; năm 2012 giảm mặt bằng lãi suất huy động còn 9 - 10%; năm 2013 - 2014, tiếp tục điều chỉnh giảm nhẹ lãi suất; năm 2015 duy trì ổn định mặt bằng lãi suất, phấn đầu tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay trung và dài hạn thêm 1 -1,5%.

Tăng trưởng tín dụng gắn với chất lượng và hiệu quả, giai đoạn 2011 - 2014, tín dụng tăng bình quân khoảng 12,6%/năm, thấp hơn rất nhiều so với mức 33,3%/năm của giai đoạn 2006 - 2010; Ổn định thị trường ngoại hối và tỷ giá; Chấn chỉnh thị trường vàng, tái cơ cấu và xử lí nợ xấu; Cơ sở pháp lý, cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, công nghệ thanh toán được đẩy mạnh đáp ứng nhu cầu của xã hội và hội nhập quốc tế...

Trong 5 năm qua, thị trường tiền tệ dần được ổn định và ngày càng được củng cố vững chắc. Chính sách tiền tệ được điều hành bài bản, năng động, vừa linh hoạt phù hợp vừa có tác động định hướng dẫn dắt kinh tế vĩ mô đi vào ổn định và giảm thiểu tác động bất lợi của các cú sốc từ thị trường tài chính – tiền tệ quốc tế và khu vực. Thanh khoản của nền kinh tế và của hệ thống ngân hàng ngày càng được cải thiện. Mặt bằng


37

lãi suất giảm mạnh qua các năm, được cho là giai đoạn có mức lãi suất thấp và ổn định nhất.

Thị trường ngoại tệ cơ bản ổn định trong bối cảnh thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế và khu vực có nhiều biến động. Đây cũng là giai đoạn tỷ giá ngoại hối ổn định lâu nhất, dự trữ ngoại hối nhà nước tăng cao nhất đảm bảo vị thế đối ngoại của nền kinh tế. Thị trường vàng được chấn chỉnh một bước căn bản, đi vào ổn định. Dòng vốn tín dụng tập trung vào sản xuất kinh doanh, tăng trưởng đi vào chất lượng, hiệu quả góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.

Tái cơ cấu hệ thống Ngân hàng và xử lý nợ xấu là điểm sáng trong tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế. Hoạt động thanh toán có bước phát triển đột phá. Hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng được đẩy mạnh. Hiệu lực, hiệu quả các mặt hoạt động hỗ trợ được nâng lên rõ rệt. Thị trường và xã hội ngày càng tin tưởng vào việc điều hành chính sách tiền tệ, giá trị và vị thế của đồng Việt Nam được củng cố và nâng cao.

Mặc dù đạt được nhiều thành công và có triển vọng phát triển tích cực, ngành Ngân hàng vẫn đang đối mặt với những thách thức khó khăn:

Hiện nay, Chính sách tiền tệ (CSTT) đang được giao thực hiện nhiều mục tiêu làm ảnh hưởng đến hiệu quả trong công tác điều hành. Vai trò của các NHTM hiện nay là quá nặng với tỷ trọng lên đến 75% tổng tài sản của toàn hệ thống tài chính. Trong khi đó, vai trò của thị trường vốn còn nhỏ bé (cung cấp vốn trung và dài hạn), điều này đáng lo ngại khi nền kinh tế phải trải qua những biến động của chu kỳ kinh tế.

Bên cạnh đó, quá trình tái cơ cấu các TCTD mặc dù trong thời gian qua đã được triển khai mạnh mẽ nhưng vẫn cần thêm những hỗ trợ, giải pháp từ phía Chính phủ và NHNN nhất là trong công tác tăng vốn thông qua việc cân nhắc thời điểm tăng tỷ lệ sở hữu cho các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ cổ phần của các TCTD trong nước từ mức tối đa 30% lên đến 49% và công tác xử lý nợ xấu của các NHTM thông qua các biện pháp tháo gỡ khó khăn trong xử lý tài sản đảm bảo, hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường mua bán nợ, thúc đẩy sự tham gia của tổ chức nước ngoài vào thị trường mua bán nợ…

Mặc dù hệ thống ngân hàng đã có những thay đổi tích cực, thể chế, chính sách ngày càng được hoàn thiện nhưng công tác cải cách hành chính của ngành Ngân hàng trong thời gian qua vẫn còn hạn chế nhất định. Cùng với đó, trong thời gian qua, hoạt động ngân hàng vẫn tồn tại tình trạng “giấy phép con” vừa làm lãng phí nguồn lực của NHNN vừa dễ dẫn đến cơ chế xin – cho không minh bạch…


38


Xem tất cả 99 trang.

Ngày đăng: 18/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí