Các Điều Kiện Phát Triển Du Lịch Tỉnh Cà Mau

hành, để tránh phải trả giá nặng nề, họ cần có chính sách để thực thi cho phù hợp. Chẳng hạn, vấn đề sử dụng bao ni-long ra sao; tuân thủ quy định môi trường du lịch biển như thế nào,… Bên cạnh đó, ngành du lịch cũng cần phải rà sót lại tất cả những quy hoạch hiện nay để có điều chỉnh hợp lý. [15].


Tóm tắt chương 1

Phát triển bền vững là một xu thế tất yếu trong mọi lĩnh vực. Du lịch bền vững là một bộ phận của phát triển bền vững. Trên thực tế cho thấy chúng ta không chỉ nghĩ, làm, phục vụ cho đời sống hiện tại để được thỏa mãn tất cả các nhu cầu, hưởng được những lợi ích to lớn nhất mà quên đi tương lai con cháu chúng ta có còn tài nguyên để khai thác, có được thụ hưởng những gì tốt đẹp hay phải gánh lấy những hậu quả mà chúng ta đã để lại. Chính vì vậy, phát triển bền vững trở thành một thông điệp vô cùng quý giá kêu gọi mỗi chúng ta dù đang hoạt động ở bất kỳ vị trí nào, ngành nào cũng cần quan tâm đến lợi ích cho cả hiện tại và tương lai. Riêng phát triển du lịch bền vững tuy còn khá mới mẻ nhưng nó có một giá trị khoa học và thực tiễn rất lớn vì con người ngày nay rất quan tâm đến nhu cầu hưởng thụ, khám phá cảnh quan thế giới, ngoài mục đích du lịch để vui chơi, xả Stress còn vì lợi ích sức khỏe hay công việc thông qua nhiều loại hình du lịch. Vì vậy phát triển du lịch bền vững là một chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển ngành công nghiệp không khói này ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trước xu thế chung ấy cùng với những bất cập mà ngành du lịch Cà Mau trong những năm qua đã mắc phải thì việc phát triển bền vững ngành du lịch là một mục tiêu mà tỉnh cần hướng đến.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH CÀ MAU‌

2.1. Khái quát về tỉnh Cà Mau‌


Trước năm 1975, tỉnh Ca Mau có tên gọi là tỉnh An Xuyên. Sau ngày thống nhất đất nước, tỉnh Cà Mau (An Xuyên) và Bạc Liêu được hợp nhất thành tỉnh Minh Hải. Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá 9 (ngày 6/11/1996) đã phê chuẩn việc tách tỉnh Minh Hải thành hai tỉnh: Cà Mau, Bạc Liêu và việc tách tỉnh được thực hiện từ ngày 01/01/1997.

2.1.1. Vị trí địa lý và lãnh thổ‌


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

Cà Mau là tỉnh cực nam của Tổ quốc, được tái lập vào ngày 01/01/1997, tách ra từ tỉnh Minh Hải. Tỉnh Cà Mau có tọa độ địa lý như sau: Điểm cực Nam có tọa độ khoảng 8030’ vĩ Bắc, thuộc xã Đất Mũi huyện Ngọc Hiển. Điểm cực Bắc có tọa độ khoảng 90 10’ vĩ Bắc thuộc xã Tân Bằng huyện Thới Bình. Điểm cực Tây có tọa độ khoảng 1040 43’ kinh Đông thuộc xã Đất Mũi huyện Ngọc Hiển. Điểm cực Đông có tọa độ khoảng 1050 25’ kinh Đông thuộc xã Tân Thuận huyện Đầm Dơi.

Tỉnh Cà Mau có ba mặt giáp biển: phía Đông giáp biển Đông, phía Nam và phía Tây giáp vịnh Thái Lan. Phía Bắc của Cà Mau giáp hai tỉnh Bạc Liêu và Kiên Giang. Cách thành phố Hồ Chí Minh 370 km.

Phát triển du lịch tỉnh Cà Mau theo hướng bền vững - 5

Nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, điểm cuối của quốc lộ 1A và hệ thống giao thông thủy phát triển mạnh, Cà Mau có điều kiện thuận lợi trong giao lưu, hợp tác kinh tế với các vùng trong cả nước và các nước trong khu vực. Tỉnh Cà Mau cũng nằm trong hành lang kinh tế phía Nam của “Chương trình hợp tác Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng”(GMS), với trục giao thông xương sống từ Hà Tiên (Cửa khẩu Xà Xía) – Quốc lộ 63 – Cà Mau – Năm Căn – Đất Mũi trong đó khu vực Mũi Cà Mau là điểm đến của tuyến giao thông này. Từ đó mở ra cho Cà Mau những khả năng phát triển kinh tế nói chung và phát triển ngành du lịch nói chung. Đặc biệt tạo khả năng kết nối với các khu vực lân cận trong phát triển ngành du lịch là rất lớn.

Lãnh thổ Cà Mau có dạng hình chữ “V” đặc trưng, gồm hai bộ phận: phần đất liền và vùng biển chủ quyền rộng lớn. Trên đất liền, Cà Mau có tổng diện tích tự nhiên khoảng 5.329km2 (2005), bằng 13,1% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long, chiếm 1,58% diện tích cả nước. Tổng chiều dài đường bờ biển lên đến 254km, trong đó đoạn giáp Biển Đông dài

106km, còn lại 148km giáp Vịnh Thái Lan. Trong vùng biển Cà Mau cũng có khá nhiều đảo như Hòn Đá Bạc (Trần Văn Thời), Hòn Chuối, Hòn Bươn (Phú Tân) thuộc biển Tây; Hòn Khoai (Ngọc Hiển) thuộc Biển Đông. Riêng cụm đảo Hòn Khoai có diện tích lớn nhất (khoảng 5km2), cách đất liền khoảng 18km. Cụm đảo này gồm 4 đảo nhỏ là đảo Đồi Mồi, Hòn Sao, Hòn Gò và đảo lớn nhất là Hòn Khoai.

2.1.2. Đặc điểm tự nhiên‌


+ Địa hình: Do nằm trong một bộ phận của địa hình ĐBSCL nên địa hình của tỉnh Cà Mau nhìn chung mang những nét cơ bản của địa hình toàn miền như thấp (trung bình từ 0,5-1m so với mực nước biển), bằng phẳng, độ dốc không đáng kể (khoảng 1cm/km) và nhiều sông ngòi, kênh rạch (khoảng 1-2km/km2). Diện tích tự nhiên của tỉnh hay bị ngập nước vào mùa mưa.

+ Khí Hậu: Đặc trưng cơ bản của khí hậu Cà Mau là nền nhiệt cao và ổn định, hầu như không có sự phân hóa nhiệt độ theo mùa. Trong khi đó, chế độ mưa lại có sự phân hóa theo mùa rõ rệt tương ứng với hai mùa đối lập nhau: mùa mưa chiếm đến 90% tổng lượng mưa cả năm còn mùa khô lại hay xảy ra tình trạng khô hạn và thiếu nước. Khí hậu Cà Mau còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chế độ gió mùa châu Á và đây chính là yếu tố quyết định đến tính chất mưa mùa của tỉnh. Nhiệt độ trung bình năm của tỉnh vào khoảng 26,50C, ở mức trung bình so với toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long. Biên độ dao động nhiệt năm khoảng hơn 20C.

+ Thủy, hải văn: Với hơn 250 km đường bờ biển và có vị trí địa lý đặc biệt, Cà Mau là tỉnh duy nhất trong cả nước ta chịu ảnh hưởng chi phối của hai chế độ triều khác nhau: bán nhật triều ở biển Đông và nhật triều không đều ở biển Tây. Biên độ triều ở biển Đông tương đối lớn: 3,0m đến 3,5m vào các ngày triều cường và 1,8 đến 2,2m vào ngày triều kém.

Hệ thống sông ngòi của Cà Mau khá dầy đặc. Bên cạnh một số con sông khá lớn như Tam Giang, Bảy Háp, Gành Hào, Sông Đốc, Trẹm… Cà Mau còn có chung đặc điểm của vùng đồng bằng sông Cửu Long là có mạng lưới kênh rạch chằng chịt rất thuận lợi cho phát triển giao thông thủy. Trên địa bàn toàn tỉnh Cà Mau có 11 con sông lớn với tổng chiều dài 416km. Lớn nhất trong số đó là con sông Tam Giang (Cái Lớn) dài 58km, sâu 20m và nhỏ nhất là sông Bạch Ngưu dài 30km…

Chế độ thủy văn của hệ thống sông ngòi, kênh rạch ở đây chịu ảnh hưởng trực tiếp

của triều quanh năm do địa hình thấp và có nhiều cửa sông thông ra biển. Cửa Bồ Đề (sông Tam Giang), cửa Bảy Háp (sông Bảy Háp), cửa Ông Đốc (sông Đốc) là những cửa sông rộng nhất ở đây (500m), cửa sông Gành Hào rộng 300m… Phần lớn các sông nội hạt Cà Mau đều chảy ra biển theo chế độ nhật triều và bán nhật triều. Phía ngoài cửa sông ảnh hưởng của thủy triều mạnh, ảnh hưởng này giảm dần khi vào sâu trong nội địa.

Nguồn nước ngầm trên địa bàn tỉnh Cà Mau khá phong phú với 7 tầng chứa nước. Trong đó, năm tầng từ tầng 2 đến tầng 6 là các tầng chứa nước mềm không bị nhiễm mặn. Tổng lượng nước ngầm khai thác khoảng hơn 17 vạn m3/ ngày đêm bằng khoảng 1/30 trữ lượng tiềm năng.

+ Biển đảo: Chiều dài đường bờ biển Cà Mau chiếm 7,8% chiều dài bờ biển cả nước, trong đó có 107 km bờ biển Đông và 147 km bờ biển Tây. Vùng biển của tỉnh rộng trên

71.000 km2, tiếp giáp với vùng biển các nước: Thái Lan, Malaysia, Indonesia, là trung tâm

của vùng biển quốc tế ở Đông Nam Á. Vùng biển Cà Mau có các đảo Hòn Đá Bạc (huyện Trần Văn Thời), Hòn Chuối, Hòn Buông (huyện Cái Nước), thuộc biển Tây; Hòn Khoai (huyện Ngọc Hiển) thuộc biển Đông. Hòn Khoai là một cụm đảo gồm 4 đảo: Đồi Mồi, Hòn Sao, Hòn Gò và lớn nhất là đảo Hòn Khoai. Cụm đảo cách đất liền khoảng 18 km, với diện tích xấp xỉ 5 km2. Các đảo này có vị trí chiến lược quan trọng, là cầu nối để khai thác kinh tế biển và là điểm tựa tiền tiêu để bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời đây đều là những địa điểm du lịch lý tưởng cho du khách khi đến với dải đất cuối cùng của Tổ quốc.

Ngoài tài nguyên đảo, quần thể du lịch sinh thái mũi Cà Mau - bãi Khai Long - cửa biển ông Trang cũng là những địa điểm thu hút đông đảo khách du lịch. Nằm về phía đông nam mũi Cà Mau, bãi biển Khai Long có bờ cát mịn dài trải khoảng 16 km, chiều rộng cách bờ từ 1 - 2 km. Bãi bồi Cà Mau được bồi đắp nên bởi triều biển Đông và biển Tây, đang tiến nhanh ra biển hằng năm. Cùng với quá trình bồi tụ, các khu rừng ngập mặn hình thành một cách tự nhiên, với nguồn lợi thủy hải sản vô cùng phong phú. Khu bảo tồn thiên nhiên Ông Trang nằm trong khu Ramsar của thế giới rất thích hợp cho hoạt động nghiên cứu khoa học và tìm hiểu về hệ sinh thái đất ngập nước ven biển điển hình.

+ Sinh vật: Với diện tích 71.000 km2 vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam do tỉnh quản lý cùng hơn 100.000 ha rừng nơi có đa dạng sinh học cao.

Rừng Cà Mau chủ yếu là loại rừng ngập mặn ven biển có ý nghĩa quan trọng đặc biệt ở nước ta hiện nay. Diện tích rừng ngập mặn ở Cà Mau chiếm 77% tổng diện tích rừng ngập

mặn vùng đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh rừng ngập mặn, Cà Mau còn có một diện tích lớn (khoảng 35ha) rừng tràm phát triển trên đất phèn thuộc địa phận các huyện U Minh, Trần Văn Thời và Thới Bình.

2.1.3. Đặc điểm kinh tế xã hội‌


Tỉnh Cà Mau có 9 đơn vị hành chính. Trong đó, thành phố Cà Mau là thành phố loại 3, trung tâm hành chính, kinh tế, văn hoá của cả tỉnh. Từ khi thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, với những lợi thế của địa phương, Cà Mau đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao ổn định, đặc biệt với sự hình thành của cụm khí - điện - đạm. Giai đoạn 1996-2005 tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 9,57%, trong đó giai đoạn 2001-2007 đạt trên 12,45%/năm. GDP 2008 tăng trên 13% so với năm 2007. Tốc độ tăng GDP năm 2009 là 11,52%, giá trị GDP đạt 19.150 tỷ đồng. GDP đầu người đạt trên 1.000 USD/ năm, đến năm 2011 đạt 1.120 USD/người/năm. Cơ cấu kinh tế có những chuyển biến mạnh mẽ với tỷ trọng của khối công nghiệp - xây dựng và dịch vụ ngày càng cao. Tốc độ phát triển kinh tế của Cà Mau liên tục cao so với mức trung bình của cả nước và là một điểm sáng điển hình của phát triển kinh tế xã hội vùng.

Nhiều dự án đầu tư xây dựng đang được thi công như: các tuyến đường ôtô về trung tâm xã, xây dựng bệnh viện, trường học, thủy lợi, hạ tầng đô thị,… Xây dựng cầu theo đề án xây dựng 1.588 cầu giao thông nông thôn đến nay đã hoàn thành và đưa vào sử dụng 604 cây cầu. Một số dự án Trung ương đầu tư trên địa bàn đã hoàn thành đưa vào sử dụng hoặc được đẩy nhanh tiến độ như: Cầu trên tuyến quốc lộ 1A đoạn Đầm Cùng- Năm Căn, cầu Gành Hào 2, nhà máy đạm Cà Mau, đặc biệt là tuyến đường Quản Lộ - Phụng Hiệp nhằm rút ngắn hành trình Cà Mau - Cần Thơ.

Theo số liệu của Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 thông báo kết quả sơ bộ tỉnh Cà Mau có 1.205.108 người. Đến đầu năm 2011, quy mô dân số Cà Mau ở ngưỡng gần 1.214.900 người. Mật độ dân số của Cà Mau là 229 người/km2, đứng thứ 8/13 tỉnh trong khu vực ĐBSCL. Sau 10 năm, dân số của tỉnh tăng khoảng 86.278 người. Dân số sống ở thành thị là 247.087 người, chiếm 20,50%. Tỷ lệ nữ là 49,63% với 598.058 người, trong đó nữ thành thị chiếm 51,04% tổng số dân thành thị, nữ nông thôn chiếm 49,26% tổng số dân nông thôn.

Hoạt động lĩnh vực văn hóa - xã hội, bảo vệ môi trường được quan tâm nên có chuyển biến tích cực. Nhiều chương trình xã hội hóa giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, thể


35

thao đang được đẩy mạnh, thu hút các thành phần kinh tế và nhân dân tham gia. Tỉnh Cà Mau tổ chức “Tuần lễ văn hóa - du lịch đất Mũi”, tổ chức Hội thảo “Bảo tồn các giá trị dự trữ sinh quyển và hỗ trợ cư dân vùng ven biển Mũi Cà Mau trước biến đổi khí hậu”, công bố Khu dự trữ sinh quyển thế giới Mũi Cà Mau,… Trong tương lai Cà Mau sẽ hứa hẹn mang đến nhiều thay đổi về mặt kinh tế - văn hóa - xã hội để tương xứng với tiềm năng vốn có của tỉnh.

2.2. Các điều kiện phát triển du lịch tỉnh Cà Mau‌


2.2.1. Tài nguyên du lịch‌


2.2.1.1.Tài nguyên du lịch tự nhiên

Các điều kiện tự nhiên ở đây kết hợp với nhau tạo cho Cà Mau nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên phong phú. Tuy nhiên, để các tài nguyên này được khai thác hết tiềm năng vốn có của nó thì đòi hỏi các cấp chính quyền phải có những biện pháp tích cực hơn từ đầu tư khai thác có hiệu quả các điểm, tuyến du lịch đến đầu tư về đội ngũ nhân viên ngành du lịch. Đồng thời tỉnh phải có kế hoạch phải dự báo, khắc phục được phần nào những ảnh hưởng xấu của điều kiện tự nhiên tới hoạt động du lịch.

Địa hình: Nếu trong quá khứ, địa hình Cà Mau cũng như địa hình toàn miền BSCL đều chịu tác động của hai nhóm yếu tố là sông và biển thì bộ mặt địa hình ngày nay của Cà Mau phần lớn chỉ chịu tác động của nhóm yếu tố biển. Điều này khác hẳn với nhiều địa phương khác như Cần Thơ, An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Tiền Giang,... bởi hầu hết những nơi này, địa hình hiện tại chủ yếu chịu tác động của nhóm các yếu tố sông với quá trình bồi đắp là chính trong khi ở Cà Mau, vị trí cách xa sông Tiền và sông Hậu nên tác động bồi lắng phù sa cũng như ảnh hưởng của nhóm các yếu tố sông không đáng kể mà thay vào đó, tác động của nhóm các yếu tố biển lại thể hiện rõ rệt hơn. Địa hình chủ yếu là đồng bằng giáp biển, có nhiều sông rạch chằng chịt, tạo ra nhiều nhóm đất như: Phèn, mặn, phèn nhiễm mặn, than bùn, bãi bồi... Mỗi nhóm đất lại thích hợp với mỗi loại cây trồng khác nhau, tạo nên những hệ sinh thái đa dạng phục vụ đắc lực cho hoạt động du lịch. Hàng năm, vùng đất Mũi Cà Mau phù sa lấn ra biển trên 50 m, tạo nên những cánh rừng xanh bạt ngàn vô tận. VQG Mũi Cà Mau là khu Ramsar thứ năm của Việt Nam được Tổ chức Môi trường thế giới công nhận là khu Ramsar mới thứ 2.088 của thế giới. Trước đó là Khu Ramsar VQG Xuân Thủy (Nam Định), Bàu Sấu thuộc VQG Cát Tiên (Đồng Nai), Hồ Ba Bể ở tỉnh Bắc Kạn và VQG Tràm Chim (Đồng Tháp). Đây là vùng đất ngập mặn ven biển, tuy không

đa dạng về chủng loài nhưng có những đặc thù riêng về hệ động, thực vật. Vườn có 93 loài chim, 26 loài thú, 43 loài bò sát, 9 loài lưỡng cư, 233 loài thủy sản. Trong đó có nhiều loài quý hiếm như bồ nông chân xám, cò trắng Trung Quốc, giang sen, rái cá, rùa hộp lưng đen, cầy giông đốm lớn, rùa răng, rùa ba gờ, rùa cổ bự, ba ba Nam Bộ…Chính những lợi thế trên đã tạo cho ngành du lịch Cà Mau có thêm những tiềm năng du lịch hấp dẫn du khách bốn phương.

Toàn tỉnh có 254 km đường bờ biển, chiếm 7,8% chiều dài đường bờ biển của cả nước. Trong đó có 107 km bờ biển Đông và 147 km bờ biển Tây (vịnh Thái Lan). Vùng biển Cà Mau có một số cụm đảo gần bờ như cụm đảo Hòn Khoai, cụm đảo Hòn Chuối và đảo Đá Bạc,… có vị trí chiến lược quan trọng. Các đảo này không những có vai trò cầu nối để khai thác kinh tế biển mà còn là tiềm năng vô giá trong khai thác và phát triển du lịch đặc biệt là du lịch sinh thái cho Cà Mau.

Khí hậu: Cà Mau có khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo với nền nhiệt trung bình năm cao. Cà Mau có khí hậu phân thành hai mùa mưa, khô rõ rệt. Hàng năm, mùa mưa kéo dài khoảng 7 tháng từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô kéo dài 5 tháng từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Tổng lượng mưa năm ở đây đạt xấp xỉ 2.400 mm và tập trung chủ yếu vào thời gian mùa mưa (chiếm khoảng 90% lượng mưa cả năm). Qua đó có thể thấy Cà Mau có một nền khí hậu ổn định rất thuận lợi trong quá trình khai thác du lịch vì có mùa khô dài, trời quang đãng tạo sự thuận lợi cho giao thông đường bộ, hàng không, kích thích nhu cầu đi tham quan, nghĩ dưỡng cho du khách. Tuy nhiên, sự phân hóa mùa đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động du lịch, đặc biệt các khu du lịch vào mùa mưa.

Hệ thống thủy văn: Cà Mau tiếp giáp hai biển: Biển Đông và biển Tây (Vịnh Thái Lan). Điều này làm cho tỉnh có nét đặc biệt so với các địa phương khác: mỗi ngày có thể ngắm Mặt trời hai lần “mọc” và “lặn” trên biển. Nét đặc trưng nhất của vùng biển Cà Mau là khá nông, bãi biển thoải, độ mặn trung bình khoảng 34o/oo và rất giàu tài nguyên sinh vật.

Mặt phía tây giáp Vịnh Thái Lan với đường bờ biển ít bị chia cắt, dài khoảng 145

km, chạy gần như thẳng theo hướng bắc – nam và có nhiều cửa sông lớn đổ ra như: cửa Hội (U Minh), cửa Ông Đốc (Trần Văn Thời), Mỹ Bình (Phú Tân), Bảy Háp (Năm Căn), Ông Trang (Ngọc Hiển),… Riêng đoạn từ cửa Bảy Háp đến Đất Mũi, bờ biển khá khúc khuỷu, bị chia cắt mạnh do cửa sông mở rộng tạo ra những vịnh ven bờ. Đây cũng là đoạn bờ biển đang được bồi tụ rất nhanh. Du khách có thể thả hồn theo những cơn sóng biển khi tham gia tour du lịch đi bằng canô chạy dọc bờ biển.

Mặt đông nam và nam tiếp giáp Biển Đông với đường bờ biển dài 106km. Ven biển có nhiều sông rạch đổ ra tạo thành nhiều cửa sông rộng và sâu như cửa Gành Hào (Đầm Dơi), cửa Hố Gùi (Năm Căn), cửa Bồ Đề (Ngọc Hiển),…. Nhìn chung, cả hai biển của Cà Mau đều có chế độ triều không đều, nhưng so với Biển Đông thì biển Tây có biên độ triều nhỏ hơn, trung bình chỉ khoảng 1m. Tuy nhiên, cả hai vùng biển này đều có những ngư trường với trữ lượng hải sản rất phong phú, nhất là ngư trường bãi bồi Mũi Cà Mau là một trong những ngư trường tôm lớn nhất của cả nước góp phần làm đa dạng thêm cho sản phẩm du lịch. Cà Mau có hệ thống sông ngòi khá dày đặc tạo sự thuận lợi cho ngành du lịch phát triển loại hình du lịch sông nước, kết hợp chèo thuyền với thưởng ngoạn cảnh đẹp hoang sơ.

Hệ động thực vật: Rừng ngập mặn và rừng tràm ở Cà Mau có năng suất sinh học cao nhất trong tất cả các loài rừng tự nhiên, không chỉ có giá trị cao về kinh tế, phòng hộ, bảo vệ môi trường mà còn là tiềm năng vô giá đặc trưng để phát triển DLST cho vùng đất Cà Mau.

Rừng Cà Mau là loại rừng ngập nước gồm rừng ngập mặn được phân bố ven biển và tập trung nhiều ở huyện Ngọc Hiển; rừng ngập lợ chủ yếu nằm sâu trong nội địa thuộc các huyện U Minh, Trần Văn Thời, Thới Bình. Hệ sinh thái rừng Cà Mau có nhiều loài động thực vật quý hiếm, năng suất sinh học cao, có tầm quan trọng bảo tồn thiên nhiên, có giá trị nghiên cứu khoa học và có ý nghĩa cân bằng môi trường sinh thái cho sự phát triển bền vững của cả khu vực.

Hệ sinh thái rừng ngập mặn hiện nay có diện tích 62.000 ha, chiếm 2/3 rừng ngập mặn của vùng đồng bằng sông Cửu Long, có vai trò phát triển nuôi trồng thủy sản và cân bằng sinh thái ven biển, bảo tồn tính đa dạng sinh học vùng rừng ngập mặn ven biển. Ở rừng ngập mặn có 64 loài thực vật, thành phần ưu thế là cây đước, vẹt, mắm, dá; về động vật hiện có 12 loài thú, 12 loài bò sát, 8 loài ếch nhái, 67 loài chim, 25 loài tôm, 258 loài cá nước mặn. Hiện có nhiều loài chim tập trung ở nhiều sân chim lớn như sân chim Đầm Dơi, sân chim Cái Nước, sân chim tại thành phố Cà Mau.

Hệ sinh thái rừng tràm diện tích 34.600 ha, có vai trò quan trọng là vùng đệm để ổn định đất, thủy văn, nuôi tôm cá nước ngọt, ong, trăn, nai, heo rừng,... và có tác dụng điều hòa khí hậu, bảo tồn tính đa dạng sinh học vùng rừng ngập nội địa. Rừng ngập lợ cây tràm chiếm ưu thế tuyệt đối, dưới tán rừng có nhiều loài dây leo và cây nhỏ khác. Các loài động vật như nai, heo rừng, khỉ, chồn, ... Các loài bò sát như trăn, rắn, rùa, trúc (tê tê),... Có 60 loài cá nước ngọt và cá nước lợ. Đặc biệt, ong mật rừng tràm nhiều và hàng năm cho khai

Xem tất cả 128 trang.

Ngày đăng: 21/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí