Những Nguyên Tắc Đảm Bảo Cho Phát Triển Du Lịch Bền Vững

1.1.5. Khách du lịch


Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ những trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến (Điều 4, Luật Du lịch, 2005).

1.1.6. Nguồn nhân lực du lịch‌


Nguồn nhân lực ngành du lịch bao gồm toàn bộ lực lượng lao động trực tiếp và gián tiếp liên quan đến quá trình phục vụ khách du lịch. Do đó, khi đề cập đến khái niệm nguồn nhân lực ngành du lịch thì không chỉ đề cập đến các lao động nghiệp vụ phục vụ khách một cách trực tiếp mà còn cả các lao động ở cấp độ quản lý, lao động làm công tác đào tạo và các lao động gián tiếp khác phục vụ khách du lịch.

1.1.7. Xúc tiến du lịch‌


Theo Khoản 17, Điều 4, Luật du lịch Việt Nam năm 2005, xúc tiến du lịch là hoạt động tuyên truyền, quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch.

1.1.8. Khái niệm phát triển bền vững‌

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.


Từ thế kỷ XIX, qua thực tiễn quản lý rừng ở Đức, người ta đã đề cập tới sự “phát triển bền vững”. Nhưng mãi đến thập kỷ 80 của thế kỷ XX, khái niệm này mới được phổ biến tương đối rộng rãi.

Phát triển du lịch tỉnh Cà Mau theo hướng bền vững - 3

Năm 1980, IUCN - Liên minh Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên cho rằng “phát triển bền vững” phải và cân nhắc đến việc khai thác các tài nguyên có khả năng phục hồi và không phục hồi, cần xem xét các điều kiện khó khăn cũng như thuận lợi trong việc tổ chức xen kẽ các hoạt động ngắn hạn và dài hạn.

Đến năm 1987, WCED - Ủy ban môi trường và phát triển thế giới - do bà Grohalem Brundtland thành lập đã công bố thuật ngữ “phát triển bền vững” trong bản báo cáo “Tương lai chúng ta” như sau: “Phát triển bền vững được hiểu là sự phát triển có thể đáp ứng những điều kiện hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”.

Trong Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất tháng 6/1992 tại Rio De Janeiro, “phát triển bền vững được hình thành trong sự hòa nhập, xen cài và thỏa hiệp giữa ba hệ thống là hệ tự nhiên, hệ kinh tế và hệ xã hội”.

Ngày nay, tất cả các quốc gia đều đề cập đến “phát triển bền vững” trong quá trình hoạch định chính sách và quản lý phát triển kinh tế với ý muốn nhấn mạnh phương thức và việc sử dụng có trách nhiệm các nguồn lực của sự phát triển.

Tuy hiện có khá nhiều quan điểm khác nhau về phát triển bền vững, song tựu trung lại, tất cả đều thống nhất ở các nội dung sau:

Phát triển bền vững là sự phát triển hài hòa cả về 3 mặt: Kinh tế - xã hội môi trường để đáp ứng những nhu cầu về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của thế hệ hiện tại nhưng không làm tổn hại, gây trở ngại đến khả năng cung cấp tài nguyên để phát triển kinh tế - xã hội mai sau, không làm giảm chất lượng cuộc sống của các thế hệ trong tương lai”.

1.1.9. Phát triển du lịch bền vững‌


1.1.9.1. Quan niệm về phát triển du lịch bền vững

Xu thế phát triển du lịch thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang đứng trước sự bắt buộc phải sử dụng có trách nhiệm các nguồn lực của mình, đặc biệt là nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân văn.

Khái niệm “phát triển du lịch bền vững” xuất hiện khoảng từ 10 năm trở lại đây trên cở sở cải thiện và nâng cấp khái niệm “du lịch mềm” (soft tourism), được nhiều quốc gia và hiệp hội du lịch lớn trên thế giới ủng hộ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa có một khái niệm thống nhất và đầy đủ về “du lịch bền vững”.

Năm 1996, Diễn đàn lãnh đạo các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp lữ hành – du lịch (WTTC – The World Travel and Tourism council) đưa ra khái niệm: “Du lịch bền vững là sự đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch mà vẫn đảm bảo khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du lịch mai sau”.

Ở Việt Nam, phát triển bền vững được thể hiện trong chỉ thị 36/CT của bộ Chính Trị, ban chấp hành Trung ương Đảng ngày 25/6/1998: Mục tiêu và các quan điểm cơ bản cho phát triển bền vững chủ yếu dựa vào hoạt động bảo vệ môi trường sinh thái, sử dụng hợp lý tài nguyên như một bộ phận cấu thành không thể tách rời của phát triển bền vững.

Theo quan điểm của Tổng cục Du lịch Việt Nam, phát triển du lịch phải được định hướng và quản lý theo phương châm: Kết hợp hài hòa nhu cầu của hiện tại và tương lai trên cả hai góc độ sản xuất và tiêu dùng du lịch, khai thác, sử dụng hợp lý và phát triển tài nguyên du lịch tự nhiên; chú trọng bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của tài nguyên du lịch

nhân văn; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tránh hiện đại hóa hoặc làm biến dạng môi trường, cảnh quan di tích, xây dựng và giữ gìn môi trường xã hội lành mạnh, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, đặc biệt là ở các đô thị du lịch và các điểm tham quan du lịch.

1.1.9.2. Du lịch bền vững và du lịch không bền vững

Có những loại hình du lịch được coi là bền vững hơn các loại hình khác. Trong khi đó, du lịch tình dục hoặc du lịch 3-S (Sun, Sea and Sand: nắng, biển, cát) ở hầu hết các nước cho thấy không bền vững. Tuy nhiên, phần lớn các loại hình du lịch đều có thể phát triển với quy mô lớn, do đó trở nên không bền vững (ví dụ, số lượng người đi du lịch săn bắt, câu cá quá đông ở một khu du lịch). Phần lớn, các mô hình du lịch có thể làm cho bền vững hơn thông qua những thay đổi định lượng hoặc định tính.

Để củng cố khái niệm du lịch bền vững, nhiều nghiên cứu đã xem xét các tác động của du lịch và so sánh các yếu tố được coi là bền vững với các yếu tố được coi là không bền vững.

Trong hoạt động thực tiễn, cần xem xét các vấn đề làm giảm tính bền vững của du lịch, đồng thời so sánh các hoạt động bền vững với các hoạt động không bền vững. Những yếu tố bền vững và không bền vững liệt kê ở trên không mang tính bắt buộc. Chúng phụ thuộc nhiều vào liều lượng, vào khả năng quản lý và kiểm soát của Nhà nước, vào khả năng tự kiểm soát của ngành du lịch.

1.2. Các yêu cầu phát triển du lịch bền vững‌


Phát triển du lịch bền vững phải tiếp cận và thực hiện một cách toàn diện, hài hoà các yêu cầu sau:

1.2.1. Hệ sinh thái‌


Phát triển du lịch phải chú ý đến việc duy trì các hệ thống trợ giúp cuộc sống (đất, nước, không khí và cây xanh), bảo vệ sự đa dạng và ổn định của các loài và các hệ sinh thái. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất – kỹ thuật phải được thiết kế, tổ chức phù hợp với điều kiện cho phép (giới hạn) của môi trường. Vì điều kiện của môi trường thay đổi theo không gian và thời gian, phát triển du lịch phải phù hợp với điều kiện môi trường ở mỗi vùng khác nhau.

1.2.2. Hiệu quả‌


Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn và lao động bỏ ra trong hoạt động kinh doanh du lịch. Hiệu quả liên quan đến việc đánh giá các phương thức, biện pháp đo lường chi phí, thời gian, lợi ích của cá nhân xã hội thu được thông qua hoạt động du lịch. Việc này đòi hỏi quy mô và sự ổn định thích hợp của các thị trường du lịch.

1.2.3. Công bằng‌


Bình đẳng và thừa nhận các nhu cầu cá nhân, hộ gia đình, các nhóm xã hội, giữa thế hệ hiện tại và thế hệ tương lai, giữa con người và thiên nhiên.

1.2.4. Bản sắc văn hoá‌


Bảo vệ và duy trì chất lượng cuộc sống, các truyền thống văn hoá đặc sắc như tôn giáo, nghệ thuật và thể chế. Du lịch phải tăng cường bảo vệ văn hoá thông qua chính sách du lịch văn hoá.

1.2.5. Cộng đồng‌


Cộng đồng địa phương tham gia vào quá trình du lịch một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua hoạt động đầu tư kinh doanh du lịch và các hoạt động khác có liên quan như công nghiệp, thủ công mỹ nghệ, nông nghiệp,…

1.2.6. Cân bằng‌


Phát triển du lịch phải tạo được sự liên kết, cân đối và hài hoà giữa kinh tế và môi trường, giữa nông nghiệp và du lịch, giữa các loại hình du lịch liên ngành để tạo hiệu quả tổng hợp.

1.2.7. Phát triển‌


Khai thác các tiềm năng làm tăng khả năng cải thiện chất lượng cuộc sống.

Tăng trưởng là kết quả của sự phát triển, nhưng không đồng nghĩa với sự khai thác triệt để và phá huỷ môi trường. [14]

1.3. Những nguyên tắc đảm bảo cho phát triển du lịch bền vững‌


1.3.1. Khai thác sử dụng các nguồn tài nguyên một cách bền vững‌


Phát triển du lịch bền vững cần đảm bảo lưu lại cho các thế hệ tương lai nguồn tài nguyên không kém hơn so với những gì mà các thế hệ trước được hưởng.

Vì vậy, trong quá trình khai thác sử dụng các nguồn tài nguyên cần phải tính đến các giải pháp nhằm ngăn chặn sự mất đi của các loại sinh vật, sự suy giảm những chức năng thiết yếu của các hệ sinh thái có giá trị du lịch như các rừng nguyên sinh, các rạn san hô,… Ngăn chặn sự phá hoại các giá trị văn hoá lịch sử, truyền thống dân tộc; Phát triển và thực thi các chính sách môi trường hợp lý trong mọi lĩnh vực của du lịch; Bảo vệ và ủng hộ việc thừa hưởng các di sản văn hoá và lịch sử của các dân tộc, tôn trọng các quyền lợi của người dân địa phương trong việc khai thác các tài nguyên du lịch.

1.3.2. Hạn chế việc sử dụng quá mức tài nguyên và giảm thiểu chất thải‌


Tiêu thụ quá mức các nguồn tài nguyên dẫn đến sự huỷ hoại môi trường địa phương, đi ngược lại sự phát triển bền vững lâu dài của ngành công nghiệp du lịch. Giảm tiêu thụ quá mức và giảm chất thải sẽ tránh được những chi phí tốn kém cho việc hồi phục tổn hại về môi trường và đóng góp cho chất lượng của du lịch.

Việc khai thác sử dụng quá mức tài nguyên và không kiểm soát được lượng chất thải từ hoạt động du lịch sẽ góp phần dẫn đến sự suy thoái môi trường mà hậu quả của nó là sự phát triển không bền vững của du lịch nói riêng và kinh tế – xã hội nói chung.

1.3.3. Phát triển du lịch gắn liền với việc bảo tồn tính đa dạng‌


Tính đa dạng về thiên nhiên, về văn hoá và xã hội là nhân tố đặc biệt quan trọng tạo nên sự hấp dẫn của du lịch, làm thoả mãn nhu cầu đa dạng của du khách, tăng cường sự phong phú về sản phẩm du lịch. Sự đa dạng của môi trường tự nhiên, văn hoá và xã hội là một thế mạnh tránh việc quá phụ thuộc vào một hay một vài nguồn hỗ trợ sinh tồn. Đa dạng là trụ cột chính của ngành công nghiệp du lịch. Đa dạng là một nhân tố quan trọng quyết định sự lựa chọn nơi tham quan của du khách, là mối quan tâm, là nguồn lợi của các nhà điều hành du lịch. Nơi nào có tính đa dạng cao về thiên nhiên, văn hoá và xã hội, nơi đó sẽ có khả năng cạnh tranh cao về du lịch và có sức hấp dẫn lớn, đảm bảo cho sự phát triển. Việc duy trì và phát triển tính đa dạng của thiên nhiên, văn hoá và xã hội là rất quan trọng đối với du lịch bền vững, là chỗ dựa sinh tồn của ngành công nghiệp du lịch.

1.3.4. Phát triển phải phù hợp với quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội‌


Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng cao vì vậy mọi phương án khai thác tài nguyên để phát triển phải phù hợp với các quy hoạch chuyên ngành nói riêng và quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội nói chung ở phạm vi quốc gia, vùng và địa

phương. Ngoài ra, đối với mỗi phương án phát triển cần tiến hành đánh giá tác động môi trường nhằm hạn chế các tác động tiêu cực đến tài nguyên và môi trường. Điều này sẽ góp phần đảm bảo cho sự phát triển bền vững của du lịch trong mối quan hệ với các ngành kinh tế khác cũng như với việc sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đảm bảo môi trường.

1.3.5. Chia sẻ lợi ích với cộng đồng địa phương‌


Để phát triển kinh tế – xã hội nói chung và từng ngành kinh tế nói riêng việc khai thác các tiềm năng tài nguyên là tất yếu. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trên một địa bàn lãnh thổ nếu mỗi ngành chỉ biết đến lợi ích của mình không có sự hỗ trợ đối với sự phát triển kinh tế và chia sẻ quyền lợi với cộng đồng địa phương thì sẽ làm cho kinh tế và cuộc sống người dân địa phương gặp nhiều khó khăn. Điều này buộc cộng đồng địa phương phải khai thác tối đa các tiềm năng tài nguyên của mình làm đẩy nhanh quá trình cạn kiệt tài nguyên và tổn hại đến môi trường sinh thái. Kết quả các quá trình đó sẽ gây những tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của ngành du lịch nói riêng và kinh tế – xã hội nói chung. Ngành du lịch hỗ trợ tích cực các hoạt động kinh tế địa phương và có tính đến các giá trị và chi phí về mặt môi trường thì mới bảo vệ được các nền kinh tế địa phương. Chia sẻ lợi ích với cộng đồng địa phương là một nguyên tắc quan trọng trong phát triển du lịch bền vững.

1.3.6. Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương‌


Cư dân địa phương, nền văn hoá, lối sống và truyền thống của địa phương là những nhân tố quan trọng thu hút khách du lịch tới điểm du lịch. Khi cộng đồng được tham gia chỉ đạo phát triển du lịch thì sẽ tạo ra được những điều kiện đặc biệt thuận lợi cho du lịch bởi cộng đồng là chủ nhân và là người có trách nhiệm chính với tài nguyên và môi trường khu vực. Điều này sẽ tạo ra khả năng phát triển lâu dài của du lịch.

1.3.7. Thường xuyên trao đổi tham khảo ý kiến với cộng đồng địa phương và các đối tượng có liên quan‌

Trao đổi tham khảo ý kiến quần chúng là một quá trình nhằm dung hoà giữa phát triển kinh tế với những mối quan tâm lớn hơn của cộng đồng địa phương, với những tác động tiềm ẩn của sự phát triển lên môi trường tự nhiên, văn hoá – xã hội. Quá trình tham khảo ý kiến trong trường hợp này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi nó bao hàm việc trao đổi thông tin, ý kiến, đánh giá và hành động dựa vào kỹ năng, kiến thức và các nguồn lực địa phương. Việc tham khảo ý kiến trên diện rộng vì lợi ích của cả cộng đồng địa phương,

du khách, và các ngành công nghiệp là việc làm hết sức cần thiết đối với mục tiêu phát triển du lịch bền vững.

1.3.8. Chú trọng việc đào tạo nâng cao nhận thức về tài nguyên môi trường‌


Đối với bất kỳ sự phát triển nào, con người luôn đóng vai trò quyết định. Một lực lượng lao động được đào tạo có trình độ nghiệp vụ không những đem lại lợi ích về kinh tế cho ngành mà còn nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. Một đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ nghiệp vụ, có hiểu biết cao về văn hoá, môi trường là yếu tố quan trọng nếu không nói là quyết định để đảm bảo cho chất lượng của sản phẩm du lịch, là một trong những nguyên tắc then chốt đối với sự phát triển du lịch bền vững.

1.3.9. Tăng cường quảng bá tiếp thị một cách có trách nhiệm‌


Quảng bá tiếp thị luôn là một hoạt động quan trọng đối với phát triển du lịch, đảm bảo sự thu hút khách, tăng cường khả năng cạnh tranh của các sản phẩm du lịch. Chiến lược tiếp thị du lịch bền vững bao gồm việc xác định, đánh giá và luôn rà soát lại mặt cung của tài nguyên thiên nhiên và nhân văn. Việc quảng cáo, tiếp thị cung cấp cho khách du lịch những thông tin đầy đủ và có trách nhiệm có thể nâng cao nhận thức hiểu biết, sự cảm kích, lòng tôn trọng của du khách đối với môi trường thiên nhiên, xã hội và các giá trị nhân văn nơi tham quan, đồng thời sẽ làm tăng đáng kể sự thoả mãn của khách đối với các sản phẩm du lịch. Điều này sẽ góp phần làm giảm những tác động tiêu cực từ hoạt động thu hút khách, đảm bảo cho tính bền vững trong phát triển du lịch.

1.3.10. Thường xuyên tiến hành công tác nghiên cứu‌


Để đảm bảo cho sự phát triển bền vững cần có những căn cứ khoa học vững chắc dựa trên việc nghiên cứu các vấn đề có liên quan. Trong quá trình phát triển nhiều yếu tố chủ quan và khách quan nảy sinh sẽ có những tác động cần phải nghiên cứu để có những giải pháp phù hợp điều chỉnh sự phát triển. Như vậy, việc thường xuyên cập nhật các thông tin, nghiên cứu và phân tích chúng là cần thiết, không chỉ đảm bảo cho hiệu quả của hoạt động kinh doanh mà còn đảm bảo cho sự phát triển bền vững trong mối quan hệ với cơ chế chính sách, với việc bảo vệ tài nguyên và môi trường,… Công tác nghiên cứu là yếu tố đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của bất cứ ngành kinh tế nào, đặc biệt là những ngành có nhiều mối quan hệ trong phát triển và phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, môi trường và văn hoá – xã hội như ngành du lịch.

Những nguyên tắc cơ bản trên đây nếu được thực hiện đầy đủ sẽ là đảm bảo chắc chắn cho sự phát triển bền vững, là chìa khoá cho sự thành công lâu dài của ngành du lịch. [2],[14], [18].

1.4. Những dấu hiệu nhận biết của phát triển du lịch bền vững‌


1.4.1. Số lượng các khu, điểm du lịch được bảo vệ‌


Số lượng các khu, điểm du lịch được đưa vào danh sách bảo vệ, tôn tạo được coi là một trong số các tiêu chí đánh giá sự phát triển bền vững của ngành du lịch. Khu vực nào, quốc gia nào càng có nhiều các khu, điểm du lịch được bảo tồn, tôn tạo chứng tỏ rằng chiến lược phát triển du lịch của quốc gia đó càng gần với mục tiêu phát triển bền vững.

1.4.2. Áp lực lên môi trường tại các điểm du lịch‌


Việc quản lý áp lực từ hoạt động du lịch lên môi trường là việc xác định những giới hạn biến đổi có thể chấp nhận được về môi trường. Việc thực hiện các thủ tục đánh giá tác động môi trường càng nghiêm túc thì việc thực thi nội dung của phát triển bền vững càng có hiệu quả.

1.4.3. Cường độ hoạt động tại các điểm du lịch‌


Phát triển du lịch bền vững phải đảm bảo xác định được cường độ hoạt động của các điểm du lịch sao cho không vượt quá ngưỡng tiêu chuẩn về môi trường, tiêu thụ năng lượng và “sức chứa”. Việc giới hạn lượng khách đến trong một chu kỳ phát triển là một vấn đề quan trọng và cần thiết, điều này sẽ giúp cho việc duy trì và bảo vệ sự đa dạng sinh học, đảm bảo cung cấp đủ nguồn năng lượng vừa phục vụ sinh hoạt của cộng đồng vừa đảm bảo phục vụ nhu cầu du khách.

1.4.4. Tác động xã hội từ hoạt động du lịch‌


Các tác động xã hội từ hoạt động du lịch thể hiện trên 2 khía cạnh, tác động đến đời sống xã hội, và tác động đến môi trường văn hoá. Thước đo các ảnh hưởng này dựa trên việc nghiên cứu tốc độ tăng trưởng dòng khách du lịch, yếu tố mùa vụ du lịch, tỷ lệ du khách trên số lượng cư dân địa phương, khả năng tự phục hồi về văn hoá xã hội của cộng đồng địa phương. Một trong những tác động từ hoạt động du lịch đến đời sống xã hội đó là tỷ lệ tội phạm trên số lượng khách du lịch. Số lượng du khách gia tăng là một trong những nguyên nhân nảy sinh ra các loại tội phạm xã hội như móc túi, cướp giật, mại dâm, ma

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/11/2023