Sự Hài Lòng Của Du Khách Và Cộng Đồng Địa Phương

tuý,… Các biện pháp về xử phạt hành chính, trật tự an ninh xã hội được ban hành là thước đo tính bền vững từ các tác động xã hội của hoạt động du lịch.

Để phát triển du lịch bền vững dưới góc độ văn hoá, việc thực hiện quy hoạch du lịch phải đảm bảo sao cho các sản phẩm văn hoá truyền thống, các ngành nghề thủ công và nghệ thuật dân gian tiếp tục tồn tại và hưng thịnh mà không bị mai một đi.

1.4.5. Quá trình thực hiện quy hoạch‌


Việc xây dựng kế hoạch và thực thi các dự án quy hoạch du lịch đóng một vai trò quan trọng. Tại một khu du lịch, sự tồn tại của một dự án quy hoạch được tổ chức thực hiện nghiêm túc sẽ là nền tảng quan trọng cho việc duy trì sự bền vững về mặt kiến trúc của một điểm du lịch.

Bên cạnh đó, cần thiết phải có sự phối hợp đồng bộ về quan điểm và các hỗ trợ kỹ thuật tương ứng giữa Chính phủ và các ban ngành của địa phương trong việc tổ chức và giám sát thực hiện các dự án quy hoạch du lịch nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.

1.4.6. Sự hài lòng của du khách và cộng đồng địa phương‌


Việc đánh giá mức độ thoả mãn của người dân địa phương và của du khách là cơ sở đánh giá việc thực thi nội dung của phát triển bền vững. Để đảm bảo cho việc thực hiện nội dung này, ngành du lịch rất cần thiết phải tiến hành các hoạt động điều tra phỏng vấn các đối tượng du khách và cộng đồng địa phương. Kết quả điều tra, nghiên cứu sẽ cho chúng ta những cơ sở, căn cứ chính xác trong việc đánh giá khả năng phát triển bền vững của hoạt động du lịch.

1.4.7. Mức độ đóng góp của du lịch vào sự phát triển của kinh tế địa phương‌

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.


Một dự án phát triển du lịch được hình thành sẽ là tiền đề cho việc thu hút các nguồn vốn đầu tư trong nước và quốc tế thông qua các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, các dự án bảo tồn tôn tạo các nguồn tài nguyên, các dự án đầu tư cho giáo dục,… Việc phát triển du lịch phải đảm bảo thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các địa phương có diễn ra hoạt động du lịch.

Phát triển du lịch tỉnh Cà Mau theo hướng bền vững - 4

1.4.8. Công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch theo hướng bền vững‌


Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ phục vụ du lịch theo hướng bền vững về mặt chuyên môn bên cạnh những kỹ năng nghề nghiệp giỏi, khả năng giao tiếp tốt, thông thạo ngoại

ngữ, cần trang bị những kiến thức về sinh thái học, quản lý môi trường, kinh tế môi trường, luật môi trường và hệ thống kiến thức sâu rộng về xã hội. Về mặt kỹ thuật, đào tạo đội ngũ cán bộ ngành trở thành các chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau hiểu được những mối quan hệ sinh thái và có thể giúp đỡ mọi người đặc biệt là du khách trong việc sử dụng các nguồn tài nguyên tốt hơn.

1.4.9. Nâng cao tính trách nhiệm trong công tác tuyên truyền quảng bá du lịch‌


Đối với phát triển du lịch bền vững, hoạt động tuyên truyền, quảng bá lại quan trọng. Tăng cường tính trách nhiệm trong công tác tuyên truyền, quảng bá đối với cả khách du lịch và các cộng đồng địa phương, sẽ góp phần hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực lên tâm lý của du khách khi tham gia vào các hành trình du lịch cũng như việc tạo tâm lý thoải mái hơn cho cộng đồng địa phương mạnh dạn tham gia kinh doanh du lịch. [22]

1.5. Sơ lược về phát triển du lịch bền vững trên thế giới và Việt Nam‌


1.5.1. Tình hình phát triển du lịch bền vững trên thế giới‌


1.5.1.1. Những kinh nghiệm về phát triển du lịch bền vững ở một số nước trên thế

giới.

Triển khai “Chương trình Nghị sự 21 về Du lịch: Hướng tới phát triển bền vững về

môi trường”, cùng với việc công bố rộng rãi tới các Chính phủ, ngành du lịch toàn cầu, các tổ chức phi Chính phủ, các cơ quan thông tấn báo chí, Hội đồng Lữ hành Du lịch Thế giới, Tổ chức Du lịch Thế giới và Hội đồng Trái đất đã tiến hành hàng loạt các buổi hội thảo khu vực nhằm nâng cao nhận thức và hướng dẫn để chương trình có thể áp dụng triển khai rộng rãi trên khắp thế giới.

Nhiều nước trên thế giới và trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã xây dựng và ban hành những chính sách, chiến lược về phát triển du lịch bền vững để đảm bảo cho sự phát triển trong tương lai lâu dài của ngành du lịch. Những cam kết của các Chính phủ các nước về bảo vệ môi trường và phát triển du lịch bền vững đã khẳng định mối quan tâm cao của các nước đến vấn đề môi trường, tài nguyên và sự sống còn của ngành du lịch.

Tại Ecuado, dự án Du lịch Sinh thái bản địa ở Ryo Blanco đã có biện pháp để giảm bớt mật độ xây dựng nhà trọ tại khu vực trung tâm nhằm hạn chế tác động tiêu cực xảy ra giữa khách du lịch và người dân địa phương. Các điểm đón khách ở đây xây dựng cách trung tâm cộng đồng khoảng 1 km.

Tại Senegan, dự án Du lịch Nông thôn tổng hợp Hạ Casamance lại chú ý đến vấn đề hạn chế công suất phục vụ của nhà trọ, “khống chế công suất được đón tối đa 20-40 khách/lần và chỉ được xây dựng ở các làng có dân số bằng hoặc lớn hơn 1000 người” chứ không cho phép tăng công suất các nhà trọ cũ.

Các nhà trọ và các khu du lịch ở Nepal được Nhà nước “cho vay ưu đãi để xây dựng các nhà vệ sinh sạch sẽ”. Các điểm thu rác được bố trí hợp lý và có chỉ dẫn cụ thể. Các chủ nhà nghỉ đã được dự án hỗ trợ về tài chính như cấp vốn vay với lãi suất thấp và kỹ thuật để quản lý và xử lý các chất thải rắn này một cách thích hợp. Trong dự án ACAP của Nepal, nhiều chương trình giáo dục đã được xây dựng và nhân rộng để nâng cao nhận thức cho du khách. Người ta đã thông tin về “điều cần và những điều không nên làm” cho khách du lịch tới địa điểm này.

Vấn đề khác liên quan đến việc quản lý khu, điểm du lịch là phải tiết kiệm nhiên liệu và năng lượng thay thế củi đốt. Nhận thức được vấn đề này, tại Nepal dự án ACAP đã đưa ra chương trình năng lượng thay thế củi đun, trước mắt là khuyến khích việc sử dụng dầu hỏa trong các cơ sở lưu trú để phục vụ các nhu cầu của khách du lịch. Trong đó ACAP đã cung cấp một khoản vay với lãi suất thấp cho những người có nhu cầu chấp nhận cung cấp dầu với giá thấp nhất; chuyên chở các bếp dầu cũng như hỗ trợ việc sửa chữa và bảo dưỡng bếp.

Chính phủ và các cơ quan hữu quan Thái Lan phát động phong trào phát triển du lịch sinh thái, gắn du lịch với bảo vệ môi trường, cảnh quan và các giá trị truyền thống của đất nước. Chính phủ Thái Lan đã kêu gọi các khu làng mạc ở vùng nông thôn hãy giữ nguyên vẻ đẹp nguyên sơ của mình, bảo vệ cây cối và giảm tiếng ồn. Các ngôi nhà cổ cùng lối kiến trúc truyền thống được yêu cầu bảo vệ, ở các khu nghỉ mát và các địa điểm du lịch ngày càng có nhiều các khu nhà tranh, nhà gỗ được dựng lên thay vì các nhà cao tầng, khách sạn kiểu Tây Âu đắt tiền. Các bãi biển được làm vệ sinh sạch sẽ, khu nghỉ có thiết kế xây dựng bảo đảm trung thực nhất với truyền thống văn hoá Thái Lan. Ông Ho Kwan Ping, chủ tịch khu du lịch lớn ở Phuket đã từng nói: “Sự hấp dẫn của Thái Lan là đặc trưng văn hoá độc đáo của đất nước, chứ không phải là sự lai căng các nét văn hoá Tây Âu. Chính vì vậy, phải làm cho các khu du lịch Thái Lan mang nhiều dáng dấp của nền văn hoá Thái Lan hơn, từ khách sạn cho tới các món ăn. Khách du lịch tới một nước vì họ muốn có được những kinh nghiệm thực tế mang đậm màu sắc của nước đó, chứ không phải là đến để thấy lại những gì đã có ở nước họ”. Phong trào giữ gìn bản sắc văn hoá Thái được thực hiện từ cấp vĩ mô tới

vi mô, từ cấp ngành du lịch cho đến từng khu du lịch, từng cá nhân tham gia trong hoạt động du lịch. Không chỉ như thế mà trong chiến dịch tiếp thị Amazing Thái Lan năm 1999, TAT (cơ quan Du lịch Quốc gia Thái Lan) còn phát hành những ấn phẩm quảng cáo riêng biệt đặc trưng cho văn hoá dân tộc Thái, ẩm thực Thái nhằm thu hút khách du lịch đến nước này và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ gìn bản sắc dân tộc.

Tại Malaysia, chương trình du lịch nghỉ tại nhà dân được tiến hành ở 5 làng: Desa Murni Sangang, Desa Murni Sonsang, Desa Murni Kerdau, Desa Murni Ketam, Desa Murni Perangap. Chỉ 90 phút đi ô tô từ trung tâm Kuala Lumpur là du khách có thể tiếp cận được với khu làng này. Mục đích chính của chương trình du lịch nghỉ tại nhà dân giúp cho du khách được tiếp xúc, trao đổi và trực tiếp tham gia vào đời sống sinh hoạt của cộng đồng người Malaysia bản địa và nhằm tạo điều kiện duy trì và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống của người Malay cũng như góp phần nâng cao mức sống cho người dân địa phương. Tại đây, du khách có thể tham gia trực tiếp vào lễ cưới cổ truyền của người bản xứ trong vai trò của người làm chứng hoặc chủ hôn, tham gia vào các chương trình dã ngoại ngoài trời như câu cá, cắm trại,… của học sinh phổ thông, tham gia vào các trò chơi cổ truyền của người bản xứ, hoặc tham gia vào chế biến các món ăn cho các thành viên trong gia đình.

Nhìn chung, nhiều nước trên thế giới và các nước trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương ít nhiều đều đã có một vài kinh nghiệm phát triển du lịch bền vững dựa trên ba mục tiêu cơ bản là: Đáp ứng nhu cầu của cộng đồng địa phương trong việc nâng cao mức sống trong tương lai gần và xa. Thoả mãn các nhu cầu của số lượng khách du lịch đang ngày càng tăng lên và tiếp tục hấp dẫn họ đạt được sự thoả mãn đó. Bảo vệ và giữ gìn môi trường thiên nhiên, văn hoá, xã hội để đạt được hai mục tiêu trên. [13].

1.5.1.2. Một số bài học về phát triển du lịch thiếu bền vững

Ở Siem Reap, Campuchia, nơi có khu đền Angkor Wat nổi tiếng thế giới, những tác động tiêu cực của một ngành du lịch phát triển quá nhanh nhưng được quản lý kém đã bộc lộ rõ. Các khách sạn mọc lên như nấm, năm 2002 tổng công suất phòng chỉ có 2.500, cuối năm 2006 đã có khoảng 8.000 phòng nhưng hiện nay đã tăng lên tới 5.000 phòng. Nguồn điện không đủ để cung cấp cho nhu cầu của cư dân địa phương, hệ thống xử lý rác thải yếu kém, các dòng sông bị ô nhiễm bởi nguồn nước thải chưa xử lý. Thêm vào đó là mối lo ngại rằng việc tiêu thụ một lượng nước lớn có thể làm cạn kiệt các mạch nước ngầm dẫn đến sụt lỡ đất và kéo theo việc sụp đổ của các ngôi đền Angkor Wat. Đây là những vấn đề nghiêm trọng và mặc dù một số dự án lớn đang được hình thành nhưng không có một nhóm cộng

đồng địa phương nào đứng ra tuyên truyền vận động cho việc phát triển bền vững.

Đất nước Thái Lan đã đón trên dưới 15 triệu lượt du khách quốc tế hàng năm. Tuy nhiên cái giá mà ngành du lịch nước này phải trả cho 15 triệu lượt khách cùng hàng tỉ đô la do họ mang lại là rất lớn. Đầu tiên là ô nhiễm môi trường. Du lịch Thái Lan luôn tự hào đã mở cửa cho tất cả mọi người. Nhưng cũng giống như bất kỳ một điểm đến nào trên thế giới, du lịch bao giờ cũng phải trả giá bằng sự hy sinh của môi trường. Điều này được thấy rõ ở các biển của Thái Lan. Ở Pattaya, mỗi buổi sáng có hàng trăm du khách bắt tàu ra đảo tắm biển. Trên đường ra các đảo, ở gần bờ biển, người ta neo một chiếc xà lan lớn để khách có thể chơi các trò chơi dù lượn. Cộng với tour du lịch, ca-nô, chiếc xà lan đã khuấy động một vùng biển Pattaya đáng lý sẽ sạch hơn nếu không có chúng.

Tương tự, biển Phuket quá tải bởi hàng ngàn du khách và rất nhiều chuyến ca-nô tốc độ cao ra vào đã khiến những lớp san hô bị chết do ô nhiễm môi trường, tạo thành các mảng đá sắc lẹm, dễ dàng cắt đứt da mỗi khi du khách chạm tới. Vì vậy, ở các bãi biển rất cạn của Phuket, khách thường loanh quanh ở ven bờ. Ngoài ra, những chuyến tàu chở khách ra khơi ngắm san hô và cá cũng được cảnh báo sẽ hủy hoại môi trường tự nhiên ở đây.

Thái Lan đã trả giá một cách đầy đau đớn cho cái gọi là công nghiệp du lịch tình dục, khi đại dịch HIV/AIDS từng hoành hành ở đây những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước. Rất nhiều sách, nhiều phóng sự của báo chí phương Tây nói về cuộc đời của các cô gái quán bar ở Thái và hậu quả của nó là những thế hệ con lai không được thừa nhận, bị bỏ rơi. [18].

1.5.2. Phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam‌


1.5.2.1. Tình hình phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam

Việt Nam là đất nước nằm ở khu vực Đông Nam Á có lãnh thổ rộng 329.560 km2, dân số đông tới hơn 80 triệu người và có một tiềm năng to lớn để phát triển du lịch. Vẻ đẹp độc đáo và sự đa dạng của cảnh quan tự nhiên, giá trị đặc biệt về đa dạng sinh học của một số khu rừng nguyên thuỷ nhiệt đới còn tồn tại một số vùng, truyền thống lịch sử chống ngoại xâm hào hùng, nền văn hoá phong phú và đặc sắc, sự cởi mở và hiếu khách của người Việt Nam đã tạo nên những hấp dẫn to lớn đối với các du khách nước ngoài nhất là khách du lịch phương Tây muốn đi du ngoạn những miền đất xa xôi ở các nước đang phát triển để được chiêm ngưỡng những vẻ đẹp tự nhiên nguyên sơ còn sót lại và tìm hiểu những nét độc đáo về văn hoá của người dân bản địa.

Mặc dù có những tiềm năng to lớn như vậy, nhưng trong một thời gian dài trước khi tiến hành các cải cách kinh tế (trước 1986) có rất ít khách du lịch quốc tế đến Việt Nam.

Năm 1981 chỉ có 4.134 du khách nước ngoài đến thăm Việt Nam. Tình hình đã thay đổi một cách rõ rệt kể từ khi Việt Nam mở cửa nền kinh tế và tiến hành các cải cách kinh tế sâu rộng theo định hướng thị trường. Những cải cách kinh tế đã tạo ra cho du lịch một cơ hội mới để phát triển. Khách du lịch và doanh thu du lịch tăng nhanh: khách quốc tế từ 250 ngàn lượt (năm 1990) lên 2,9 triệu lượt (năm 2004), tăng hơn 10 lần, khách nội địa từ 1 triệu lượt lên 14 triệu lượt, tăng 14 lần. Thu nhập từ du lịch tăng trung bình 11,6%/năm từ 2.240 tỷ đồng năm 1991 lên 26.000 tỷ đồng năm 2004, tương đương 1,7 tỷ USD. Đây là mức tăng trưởng cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Du lịch phát triển tác động mạnh mẽ đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy phân công lao động xã hội, góp phần tăng thu nhập dân cư, thực hiện xoá đói giảm nghèo đối với nhiều địa phương trong nước. Hoạt động du lịch đã thu hút được nhiều tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế tham gia. Du lịch phát triển đã góp phần quảng bá về đất nước con người, sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp đổi mới của đất nước.

Tuy nhiên, sau khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997, đặc biệt là sau vụ khủng bố nước Mỹ ngày 11/9/2001, tình hình chính trị thế giới trở nên phức tạp đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động du lịch trên toàn thế giới.

Thêm vào đó, ảnh hưởng của dịch bệnh SARS và cúm gà bùng phát ở nhiều quốc gia, lãnh thổ trong đó có Việt Nam, thảm hoạ sóng thần ngày 26/12/2004 gây thiệt hại lớn cho nhiều nước ở Nam Á, Đông Nam Á, tình hình giá xăng dầu thế giới leo thang làm cho giá cả nhiều mặt hàng gia tăng,… ảnh hưởng bất lợi đến sự phát triển của ngành du lịch toàn cầu trong đó có Việt Nam.

Kinh tế thế giới có xu hướng phục hồi và phát triển trong năm 2004 tạo điều kiện cho ngành du lịch toàn cầu có bước phát triển mới. Các nước trong khu vực đều có chiến lược ưu tiên phát triển du lịch, tập trung dùng du lịch làm động lực thúc đẩy kinh tế, có cơ chế chính sách hấp dẫn và rất linh hoạt để tạo điều kiện cho phát triển du lịch, phát huy lợi thế trong cạnh tranh quốc tế đặt du lịch nước ta vào thế cạnh tranh gay gắt. [15], [17].

Ngày nay ngành du lịch mang lại thu nhập ngày một lớn cho xã hội. Hoạt động du lịch thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế và mọi tầng lớp nhân dân, mang lại thu nhập không chỉ cho những đối tượng trực tiếp kinh doanh du lịch mà gián tiếp đối với các ngành liên quan, xuất khẩu tại chỗ và tạo thu nhập cho các cộng đồng dân cư địa phương. Tốc độ tăng trưởng nhanh về thu nhập: năm 1990 thu nhập du lịch nước ta mới đạt 1.350 tỷ

đồng thì đến năm 2009, con số đó ước đạt 70.000 tỷ đồng, gấp trên 50 lần. Lượng khách du lịch quốc tế cũng tăng 17 lần từ 250.000 lượt (năm 1990) lên xấp xỉ 4,253 triệu lượt (năm 2008). Khách du lịch nội địa ước tăng 20 lần, từ 1 triệu lượt năm 1990 lên khoảng 20,5 triệu lượt năm 2008. Số lượng người Việt Nam đi du lịch nước ngoài ngày càng tăng, bình quân giai đoạn 2000 - 2008, trên 30.000 người/năm. Năm 2012 lượng khách quốc tế đến Việt Nam là 6.847.678 lượt, tăng 13,86% so với năm 2011.

1.5.2.2. Những dấu hiệu phát triển thiếu bền vững

Trong giai đoạn 1986 – 1995 nhờ có cải cách kinh tế du lịch Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, từ sau 1996 đã xuất hiện những dấu hiệu của sự phát triển không bền vững. So với năm 1996 số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong năm 1997 đã giảm sút. Do tác động xấu của cuộc khủng hoảng kinh tế ở châu Á sự tăng trưởng của du lịch Việt Nam trong năm 1998 đã giảm đi 8 – 10 % so với năm trước. Điều đáng chú ý là 63% khách du lịch quốc tế đã rời Việt Nam sớm hơn so với kế hoạch và phần lớn trong số họ (80%) đã nói rằng họ không muốn quay trở lại thăm Việt Nam một lần nữa. Nhiều khách sạn và nhà khách ở các trung tâm du lịch lớn đã lâm vào hoàn cảnh khó khăn do thiếu vắng khách du lịch quốc tế. Tại các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh từ 1997 đã tràn ngập hiện tượng “thừa phòng, thiếu khách” và tỉ lệ phòng cho thuê trong tổng số phòng hiện có của các khách sạn giảm mạnh, từ khoảng 80% trong khoảng thời gian 1992 – 1994 xuống còn 64% năm 1996 và thậm chí chỉ còn 55% trong đầu năm 1999. Từ 1997 đã xuất hiện một tình hình đáng buồn là đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong lĩnh vực du lịch sau giai đoạn tăng rất mạnh (1986 - 1996) đã giảm đáng kể.

Các dòng du lịch tập trung quá mức vào các trung tâm lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, vịnh Hạ Long, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt, trong khi đó du lịch ở nhiều vùng xa vùng sâu, nơi có tiềm năng to lớn về du lịch, đặc biệt du lịch sinh thái thì chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, chêch lệch giữa các vùng và các khu vực trong việc phát triển du lịch ngày càng trở nên sâu sắc. Việc xây dựng một cách bừa bãi và không có kế hoạch, sự gia tăng rác và các loại phế thải, sự phá huỷ san hô làm vật liệu xây dựng đã làm giảm sút chất lượng môi trường du lịch. Nhiều chuyên gia nghiên cứu về môi trường đã cho rằng các trung tâm du lịch biển của Việt Nam, nơi tập trung tới 80% các hoạt động du lịch và nghỉ ngơi của Việt Nam, hiện đang đứng trước nguy cơ ô nhiễm dầu, kim loại nặng cũng như chất thải hữu cơ chủ yếu do các hoạt động công nghiệp, vận tải biển và khai thác dầu gây ra. Sự ô nhiễm nước biển đã tác động xấu cho các hệ sinh thái có giá trị cao như hệ

sinh thái rừng ngập mặn ở các vùng sình lầy ven biển và hệ sinh thái san hô. Nhiều người kinh doanh trong lĩnh vực du lịch vì quá tập trung vào các lợi ích kinh tế trước mắt đã khai thác không hợp lý các nguồn tài nguyên du lịch của địa phương. Tại một số nơi du lịch, văn hoá độc đáo của người dân địa phương ít nhiều đã bị tổn hại, khi vùng xa xôi này đột ngột mở cửa cho khách du lịch nước ngoài tới thăm mà không có sự chuẩn bị đầy đủ đến mức cần thiết. Có thể xem việc suy giảm tính thuần chất vốn có của chợ Tình ở Sa Pa do phải phục vụ cho các nhu cầu của khách nước ngoài là một bằng chứng rõ rệt về điều này.

Theo nhận định của các chuyên gia, du lịch Việt Nam chưa phát triển đủ sức và rộng như Thái Lan để có thể thấy ra rằng những tác động về mặt xã hội bị xáo trộn. Dịch vụ mua sắm cũng chưa đủ thu hút để tạo ra "thảm họa môi trường" túi ni-long,… Tuy nhiên, các vấn đề về môi trường và cảnh quan đã có thể là hồi chuông cảnh báo. Bây giờ khó tìm được ở Việt Nam một bờ biển hoang sơ, khi các bãi biển đẹp đã bị những nhà hàng, khách sạn băm nát. Không chỉ cảnh quan bị phá vỡ mà những bất cập trong quản lý cũng khiến mơi trường ở những khu vực này bị ô nhiễm. Trước đây, rừng dừa ven biển Mũi Né rất đẹp, đó là rừng dừa đẹp nhất Việt Nam, thì nay đã bị phá gần như hoàn toàn để lấy đất cho khách sạn. Trong khi đáng lý nó phải được bảo tồn để phục vụ du lịch. Một trong những tiêu chí cho biết đâu là một bãi biển đẹp chính là tầm nhìn. Nhưng khắp các bãi biển ở nước ta, tầm nhìn đều bị che khuất bởi xây dựng. Chẳng hạn như Mũi Né, Vũng Tàu, các bãi biển ở Quảng Nam,… Du khách nước ngoài đã nhiều lần lên tiếng về vấn đề ô nhiễm môi trường ở vịnh Hạ Long khi nơi đây tận thu khai thác du lịch. Váng dầu từ du thuyền, nhất là rác thải, chai lọ, túi ni-long trong vịnh,… đến nay vẫn chưa được xử lý bài bản để hạn chế. Sông Dương Đông ở Phú Quốc cũng rất nhiều rác. Ở vịnh Nha Trang, dịch vụ đi tàu ra đảo ngắm san hô ít nhiều cũng ảnh hưởng đến môi trường. Các bản người dân tộc ở Sapa đang bị bê tông hóa để tiện phục vụ du khách, mất đi bản sắc vốn đã tạo nên sự hấp dẫn đối với du khách quốc tế. Tình trạng này cũng giống ở Hội An, khi ngày càng nhiều người dân ở địa phương khác đến đây mua nhà để làm du lịch. Do đó góp phần đánh mất bản sắc của cư dân bản địa. Nhưng du lịch làm cho xấu đi nhanh nhất có lẽ là ở Đà Lạt. Rất nhiều thắng cảnh ở đây đến nay không còn do chịu sự tác động của con người,… Nhiều người nghĩ làm du lịch ở ta dễ quá, nên làm một cách manh mún, chủ yếu "ăn" vào thiên nhiên, nên không có tính bền vững.

Đi cùng với phát triển du lịch là những trả giá về cảnh quan môi trường, xã hội, nhưng vấn đề chúng ta phải biết cách hạn chế những trả giá đó. Theo các doanh nghiệp lữ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/11/2023