Song, nhìn chung chất lượng nhân lực du lịch thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của sự hội nhập và phát triển. Hệ thống trường, lớp được mở ra ồ ạt trong khi sự chuẩn bị về nguồn lực con người (thầy), nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, trang thiết bị cơ sở vật chất gấp gáp, sơ sài ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. Tỷ lệ nhân lực du lịch được đào tạo mới chỉ đạt dưới 40%, phần đông lao động phổ thông và thông qua truyền nghề, huấn luyện tại chỗ. Lực lượng lao động ngành du lịch vừa thiếu vừa yếu. Đây là một trong những khó khăn lớn nhất của ngành, hạn chế phát triển du lịch theo hướng bền vững.
Tiêu chí đào tạo nguồn nhân lực du lịch của tỉnh chưa đạt yêu cầu hay có thể nói là kém bền vững.
Sự đồng thuận của cộng đồng địa phương
Theo kết quả điều tra 253 người là cư dân ven biển (từ trung tâm thành phố Phan thiết đến khu vực Hàm Tiến, Mũi Né), có 70,7% số người được khảo sát cho rằng họ hài lòng và đồng tình, ủng hộ sự phát triển du lịch của tỉnh, còn 29,3% không đồng tình.
Những nguyên nhân cơ bản làm cho cộng đồng địa phương đồng thuận với phát triển du lịch là:
- Đường sá được xây dựng, nâng cấp tốt hơn;
- Các phương tiện giao thông công cộng phong phú, thuận tiện hơn;
- Tạo ra nhiều việc làm mới cho cư dân;
- Hỗ trợ nghề truyền thống của địa phương phát triển;
- Hoạt động buôn bán thuận lợi hơn.
Những nguyên nhân chính làm cho cộng đồng địa phương chưa đồng thuận với phát triển du lịch là:
- Không có đường xuống biển;
- Ô nhiễm rác;
- Ồn ào, mất trật tự;
- Nạn trộm cắp, móc túi gia tăng;
- Tắc nghẽn, trở ngại cho giao thông;
- Rượu chè, cờ bạc.
Nội dung khảo sát | Kết quả | |||
Số lượng | % | |||
Bạn có hài lòng về hoạt động du lịch đang diễn ra tại địa phương hay không? | Hài lòng | 179 | 70,7 | |
Không hài lòng | Ồn ào, mất trật tự | 07 | 2,8 | |
Ô nhiễm rác | 20 | 7,9 | ||
Không có đường xuống biển | 26 | 10,3 | ||
Nạn trộm cắp, móc túi | 11 | 4,3 | ||
Tắc nghẽn giao thông | 5 | 2,0 | ||
Rượu chè, cờ bạc | 5 | 2,0 | ||
Theo bạn, hoạt động du lịch tỉnh Bình Thuận có góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng của địa phương hay không? | Có, nhờ hoạt động du lịch phát triển mà: | Đường sá được xây dựng, nâng cấp tốt hơn | 151 | 59,7 |
Các phương tiện giao thông công cộng phong phú, thuận tiện hơn | 84 | 33,2 | ||
Không | 18 | 7,1 | ||
Bạn có đồng tình, ủng hộ phát triển du lịch tại địa phương hay không? | Đồng tình, vì mang lại lợi ích cho cộng đồng | 202 | 79,8 | |
Không đồng tình | 51 | 20,2 | ||
Theo bạn, người dân địa phương có được hưởng lợi từ hoạt động du lịch hay không? | Có, du lịch phát triển đã: | Tạo ra nhiều việc làm mới cho cư dân | 128 | 50,6 |
Hỗ trợ nghề truyền thống của địa phương phát triển | 19 | 7,5 | ||
Hoạt động buôn bán thuận lợi hơn | 39 | 15,4 | ||
Không | 67 | 26,5 |
Có thể bạn quan tâm!
- Thu Nhập Du Lịch Bình Thuận Giai Đoạn 2005 – 2010
- Công Suất Buồng Trung Bình Giai Đoạn 2005 – 2010
- Đánh Giá Thực Trạng Phát Triển Du Lịch Tỉnh Bình Thuận Trên Quan Điểm Phát Triển Bền Vững
- Bảng Điểm Đánh Giá Tổng Hợp Về Bảo Vệ Môi Trường
- Các Chiến Lược Và Quy Hoạch Phát Triển Kinh Tế - Xã Hội Của Tỉnh
- Định Hướng Về Bảo Vệ Tài Nguyên Và Môi Trường
Xem toàn bộ 178 trang tài liệu này.
Bảng 2.41: Một số kết quả khảo sát về sự đồng thuận của cộng đồng địa phương
Có thể nói, về cơ bản cộng đồng địa phương đồng thuận với sự phát triển du lịch. Tuy nhiên, tỉ lệ này chưa cao, cần quan tâm giải quyết những điều người dân chưa hài lòng, đặc biệt là việc cải thiện con đường xuống biển, làm tốt hơn công tác vệ sinh môi trường tại các điểm du lịch.
Tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức về PTDL bền vững
Xác định du lịch là ngành kinh tế trọng điểm, phát triển du lịch có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, công tác tổ chức quán triệt, phổ biến Nghị quyết của Tỉnh uỷ về phát triển du lịch đến năm 2010 đã được các sở, ngành, địa phương quan tâm triển khai với nhiều hình thức. Qua đó nhận thức về vai trò của phát triển du lịch bền vững, ý thức trách nhiệm của từng sở, ngành, địa phương và của cộng đồng trong thực hiện nhiệm vụ phát triển du lịch, bảo vệ môi trường tự nhiên-xã hội trong lĩnh vực du lịch ngày càng rõ nét hơn, sự phối hợp cũng ngày càng chặt chẽ, có hiệu quả hơn.
Hàng năm, tỉnh đã tổ chức các lớp tập huấn nhận thức về du lịch cộng đồng, kỹ năng giao tiếp, ứng xử văn hóa trong hoạt động du lịch. Trình độ nhận thức của cộng đồng, của các đối tượng là tình nguyện viên, lực lượng thanh niên xung kích, đối tượng hành nghề xe ôm, bán hàng rong và một số hộ dân sống ở các khu du lịch Hàm Tiến, Mũi Né, La Gi, Tuy Phong… đã được nâng lên rõ rệt.
Tuy nhiên, các hoạt động tuyên truyền, giáo dục chưa liên tục; nội dung tuyên truyền chưa phong phú, đa dạng. Nhận thức chung về phát triển du lịch bền vững trong cộng đồng còn rất hạn chế. Ý thức bảo vệ môi trường của cộng đồng và du khách chưa cao. Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch chưa chặt chẽ, chưa tạo sức mạnh cho phát triển du lịch.
Tiêu chí tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức về phát triển du lịch bền vững mới đạt mức trung bình.
An toàn cho du khách
Tình hình an ninh trật tự, phòng cháy chữa cháy, an toàn cho du khách trong hoạt động du lịch cơ bản được bảo đảm. Công tác cứu hộ tại các bãi tắm, hồ bơi ở các khách sạn, resort được quan tâm chú ý, thường xuyên duy trì lực lượng cứu hộ thường trực, nhắc nhở du khách và kịp thời xử lý các tình huống xảy ra. Tình hình giá cả dịch vụ, hàng hoá tại các khu, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh trong những ngày cuối tuần, trong các dịp lễ tết khá ổn định. Việc niêm yết giá và bán theo giá niêm yết theo qui định nhà nước được các cơ sở kinh doanh lưu trú du lịch, dịch vụ du lịch thực hiện khá nghiêm túc.
Sự cố “khủng hoảng du lịch” do công ty Lanta Tour - một hãng lữ hành tại Nga mà khách đã mua tour - phá sản tháng 2 năm 2012 làm 309 khách Nga bị kẹt tại Bình Thuận, UBND tỉnh, sở VH-TT&DL và Hiệp hội du lịch tỉnh đã phối hợp chặt chẽ, đưa ra cách giải quyết kịp thời, đúng đắn. Đây là “Hình mẫu giải quyết khủng hoảng du lịch”, đó là nhận xét của ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó Vụ trưởng Vụ Lữ hành (Tổng cục Du lịch). “Bởi, với Bình Thuận, một địa phương còn nghèo - mà vào cuộc nhanh chóng như vậy - thì đáng để các địa phương khác học tập”. Việc xác định đặt khách du lịch vào vị trí trung tâm để giải quyết sự cố, đã giúp Bình Thuận và ngành du lịch Việt Nam ''được lòng'' khách quốc tế. Rõ ràng, hình ảnh đất nước, con người của điểm đến trong mắt khách du lịch đẹp lên hay xấu đi rất nhiều qua cách giải quyết những sự cố như thế này. Chính sự giúp đỡ du khách trong lúc khó khăn sẽ là hiệu ứng tốt trong việc quảng bá truyền miệng khi khách trở về Nga. Và trước mắt, ngay trong số này, nhiều du khách Nga đã đăng ký ở lại Bình Thuận lâu hơn và khẳng định sẽ quay lại Việt Nam. Ở nội dung này, du lịch Bình Thuận được đánh giá tốt về mặt bảo đảm an toàn cho du khách.
Bên cạnh những hình ảnh đẹp đó, tình hình mất cắp tài sản của du khách, tình trạng đeo bám, chèo kéo khách, tình trạng tăng giá, bán hàng kém chất lượng cho khách du lịch vẫn xảy ra. Tính riêng năm 2009 đã xảy ra 54 vụ mất cắp tài sản của du khách và của doanh nghiệp, trong đó có 23 vụ liên quan đến người nước ngoài. Xảy ra 05 vụ tai nạn giao thông liên quan đến người nước ngoài, trong đó có 01 vụ nghiêm trọng làm chết 09 du khách người Nga. Có 06 người chết đuối, trong đó 01 người nước ngoài; 01 khách nước ngoài tự tử. Kết quả khảo sát cho thấy 4,3% cộng đồng địa phương cho rằng phát triển du lịch làm gia tăng tệ nạn trộm cắp, móc túi. Đây cũng là yếu tố đánh mất tính bền vững của du lịch.
Nhìn chung, về giữ gìn trật tự trị an, bảo đảm an ninh, an toàn cho du khách, du lịch Bình Thuận xứng đáng đạt mức tương đối tốt.
Đánh giá tổng hợp về phát triển xã hội của hoạt động du lịch
Du lịch phát triển đã giải quyết được nhiều việc làm cho người lao động (khoảng
2.300 lao động/năm) góp phần cải thiện đời sống cho cộng đồng địa phương, phản ánh vai trò ngày càng tăng của ngành và tính hiệu quả của công tác xã hội hoá hoạt
động du lịch. Thông qua các chương trình đào tạo ngắn hạn và dài hạn, chất lượng nguồn nhân lực du lịch được nâng lên từng bước. Về cơ bản, cộng đồng địa phương đồng thuận, ủng hộ sự phát triển du lịch của tỉnh. An ninh, an toàn cho du khách được đảm bảo. Đây là những yếu tố hết sức thuận lợi du lịch phát triển bền vững.
Bảng 2.42: Bảng điểm đánh giá tổng hợp về phát triển xã hội
Tiêu chí | Hệ số | Bậc | ||||
4 | 3 | 2 | 1 | |||
1 | Tăng trưởng bình quân lao động du lịch | 3 | 12 | |||
2 | Đào tạo nguồn nhân lực du lịch | 2 | 2 | |||
3 | Tỷ lệ cộng đồng địa phương đồng thuận với sự phát triển du lịch của tỉnh | 2 | 6 | |||
4 | Tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức về phát triển du lịch bền vững | 1 | 2 | |||
5 | An toàn cho du khách | 1 | 3 | |||
Tổng số điểm/điểm tối đa | 25/36 = 69% | |||||
Đánh giá chung về phát triển xã hội | Tương đối bền vững |
Tuy nhiên, hiệu quả công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch chưa cao, chất lượng nguồn nhân lực chưa tương xứng với yêu cầu của sự phát triển, trật tự văn minh trong kinh doanh du lịch còn nhiều hạn chế. Đây cũng là yếu tố đánh mất tính bền vững của du lịch.
Điểm đánh giá tổng hợp về phát triển xã hội của du lịch Bình Thuận được thể hiện trong bảng 2.42. Về mặt xã hội, du lịch Bình Thuận giai đoạn 2000 – 2010 được đánh giá phát triển tương đối bền vững.
2.2.3.3. Về bảo vệ môi trường
Tỉ lệ các điểm tài nguyên, điểm tham quan DL được bảo vệ, tôn tạo
Bình Thuận có tài nguyên du lịch phong phú và đặc sắc là điều kiện thuận lợi phát triển nhiều loại hình du lịch. Tỉnh đã từng bước quan tâm đến công tác đầu tư, tôn tạo các điểm, khu du lịch và tăng cường hệ thống xử lí môi trường. Những hạng mục đầu tư lớn, trong quy hoạch đều có các giải pháp phát triển bền vững. Đây là môi trường thuận lợi cho công tác bảo vệ và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên du lịch, và hướng các chủ đầu tư thực hiện đúng các tiêu chí khai thác bền vững tài nguyên.
Tuy nhiên, tài nguyên du lịch chưa được khai thác toàn diện, chủ yếu mới tập trung khai thác khu vực ven biển, khai thác tài nguyên sẵn có mà chưa có sự đầu tư, tôn tạo bảo vệ một cách thỏa đáng.
Kết quả nghiên cứu hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch của tỉnh cho thấy số lượng các điểm du lịch được bảo vệ, tôn tạo chiếm tỷ lệ thấp. Tính đến năm 2010, toàn tỉnh mới chỉ có 30/131 điểm (chiếm tỉ lệ 23%) số điểm du lịch nằm trong danh mục đã được các cấp phê duyệt được khai thác phục vụ du lịch. Thực chất số lượng các điểm du lịch được đầu tư bảo vệ, tôn tạo ít hơn con số này. Còn lại 101/131 điểm (chiếm tỉ lệ 77%) tài nguyên du lịch toàn tỉnh chưa được khai thác, bảo vệ, tôn tạo đúng mức, chưa thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư cũng như của khách du lịch. Có thể nói, ngoại trừ một số điểm du lịch đã hình thành Ban quản lý và những điểm di tích văn hoá lịch sử, kiến trúc nghệ thuật đã được xếp hạng cấp Quốc gia ít phải đầu tư trong quản lý khai thác, còn lại đa số các điểm du lịch tình trạng quản lý khai thác chưa được tốt. Nhiều lợi thế tài nguyên còn lãng phí và chưa được khai thác có hiệu quả.
Có thể đánh giá tiêu chí về tỷ lệ các điểm du lịch được bảo vệ, tôn tạo mới đạt mức trung bình.
Tỉ lệ các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch có hệ thống thu gom và xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường
Số lượng và tỉ lệ các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch có hệ thống thu gom và xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường trên địa bàn tỉnh ngày càng tăng. Chủ các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch, đặc biệt là loại hình khách sạn mini, nhà nghỉ du lịch, nhà trọ đã được phổ biến các qui định của nhà nước về vệ sinh môi trường. Hầu hết các doanh nghiệp du lịch đều chủ động thực hiện tốt công tác vệ sinh môi trường tại đơn vị, có biện pháp tạo cảnh quan môi trường sạch, đẹp trong khu vực.
Tuy nhiên, tỉ lệ cơ sở du lịch đã xây dựng hệ thống thu gom và xử lí chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường còn thấp. Cho đến năm 2006, mới chỉ có 5/84 cơ sở du lịch là: Phú Hải resort, Novotel, Cát Trắng, Seahorse và Sài Gòn - Mũi Né xây dựng hệ thống xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường. Đến năm 2009 tỉ lệ này nâng lên 80/150 cơ sở (đạt tỉ lệ 53%), năm 2010 có 90/166 (đạt tỉ lệ 54%) cơ sở kinh doanh du
lịch đã xây dựng hệ thống thu gom và xử lí chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường [68], [70]. Còn lại phần lớn cơ sở chưa đầu tư đúng mức cho việc thu gom và xử lý chất thải, phổ biến là nước thải cho tự thấm hoặc thải trực tiếp ra biển. Việc khai thác tài nguyên du lịch của một số doanh nghiệp du lịch chưa gắn với bảo vệ tài nguyên du lịch. Kết quả kiểm tra 135 cơ sở du lịch và chế biến hải sản ven biển năm 2009 của sở Tài nguyên và Môi trường, có đến 77 cơ sở không thực hiện đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường. Có thể nói, tỉ lệ các cơ sở du lịch có hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường chưa đạt tiêu chí phát triển bền vững.
Tỉ lệ rác thải tại các khu, điểm du lịch được thu gom, xử lý
Công tác bảo vệ môi trường phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua bước đầu đã đạt được những kết quả quan trọng. Công tác kiểm tra, giám sát các nguồn gây ô nhiễm môi trường tại các khu vực hoạt động du lịch ven biển ngày càng được tăng cường. Song, tỉ lệ thu gom rác thải mới đạt từ 55-65% [68]. Rác thải trong các khu du lịch dã ngoại và các điểm tham quan du lịch chưa được giảm thiểu, đặc biệt trong những ngày cao điểm.
Tại khu vực Khe Gà (Hàm Thuận Nam), Phan Rí Cửa, Bình Thạnh (Tuy Phong)… người dân có thói quen đổ rác xuống biển nên biển nơi đây chứa đựng tất cả những thứ không dùng được của con người. Chất thải từ đất liền theo các dòng sông lớn đổ ra biển rồi sóng lại đánh tấp vào bờ gây ô nhiễm các bãi tắm, khu du lịch. Xét trên quan điểm phát triển bền vững, tiêu chí này mới đạt mức trung bình.
Quản lý cường độ hoạt động ở các khu, điểm du lịch
Việc xác định và quản lý cường độ hoạt động của một khu du lịch sẽ góp phần giới hạn lượng khách du lịch tập trung quá đông tại một khu du lịch trong cùng một thời điểm, qua đó sẽ giảm thiểu được các tác động tiêu cực lên các nguồn tài nguyên và môi trường tại khu vực đó. Tuy nhiên, một trong những hạn chế của du lịch Việt Nam hiện nay là chưa có công trình nghiên cứu xác định “sức chứa” cụ thể cho các hoạt động du lịch cũng như phương pháp quản lý “sức chứa” ở các khu, điểm du lịch. Có thể nói 100% số lượng các khu du lịch hiện nay trên lãnh thổ du lịch Việt Nam đều đang bị khai thác quá “sức chứa” thực tế của chúng [75]. Bình Thuận cũng không phải là ngoại lệ với tình hình trên.
Mục tiêu của phát triển bền vững là tạo ra một sự phát triển lâu dài, ổn định, vì vậy mọi “cơn sốt” trong phát triển du lịch dưới bất kỳ hình thức nào đều phá vỡ khả năng phát triển bền vững của ngành. Hiện tượng “cháy phòng” vào các ngày lễ, Tết, và các ngày nghỉ cuối tuần và sự tăng giá, chênh lệch giá cả của các dịch vụ trong những ngày này đã thể hiện sự quá tải của các điểm du lịch tại Bình Thuận.
Quản lý cường độ hoạt động ở các khu, điểm du lịch của tỉnh chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển bền vững.
Ứng phó với sự cố môi trường ở các khu, điểm du lịch
Để ứng phó với sự cố môi trường giảm thiểu tình trạng gây ô nhiễm tại khu vực biển ven bờ, UBND Tỉnh đã ban hành Chỉ thị số 36/CT-UBND ngày 02 tháng 8 năm 2007 về tăng cường quản lý chất thải từ các tàu thuyền tại các bến neo đậu và khu vực biển ven bờ, theo dõi diễn biến tràn dầu khu vực ven biển và hướng dẫn UBND các huyện/thị xã/thành phố lập kế hoạch thu gom, xử lý dầu khi có sự cố, phối hợp Trung tâm An toàn và Môi trường Dầu khí tổ chức Hội thảo khoa học về nghiên cứu điều tra tổng hợp vùng biển Bình Thuận, xây dựng phương án ứng phó dầu tràn từ các hoạt động dầu khí. Công tác quan trắc theo dõi hiện trạng môi trường tại các địa điểm, khu vực nhạy cảm trên địa bàn Tỉnh được triển khai, đã hình thành Trung tâm Quan trắc môi trường trực thuộc Chi cục Bảo vệ môi trường, xây dựng mạng lưới quan trắc môi trường, điều tra đánh giá ô nhiễm môi trường du lịch ven biển, đề xuất các biện pháp nhằm phát triển du lịch bền vững….
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên thì tình hình ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường trên địa bàn tỉnh nhiều nơi chưa được ứng phó kịp thời. Cơ chế phối hợp giữa các cấp, các ngành và địa phương trong việc ứng phó với sự cố môi trường chưa rõ ràng, chưa tạo ra sức mạnh tổng hợp cho phát triển du lịch.
Một số mâu thuẫn giữa phát triển du lịch với phát triển kinh tế biển như vấn đề bố trí luồng lạch cho ghe thuyền đánh bắt hải sản ven bờ với việc tổ chức các dịch vụ du lịch ven biển, vấn đề quy hoạch nuôi trồng thuỷ sản, khai thác titan… với quy hoạch phát triển du lịch chưa được khắc phục dẫn đến tình trạng khai thác kinh doanh tuỳ tiện gây tác hại xấu đến cảnh quan thiên nhiên và môi trường.
Xét trên quan điểm phát triển bền vững, tiêu chí này chưa đạt yêu cầu.