Hình 2.1. Bản đồ hành chính tỉnh Bắc Ninh
(Nguồn: Tác giả biên vẽ)
Hình 2.1. Bản đồ hành chính tỉnh Bắc Ninh
Việc khắc phục bất lợi này không dễ, trước mắt chỉ có thể giảm nhẹ tác động của yếu tố bất lợi này bằng cách đầu tư các dịch vụ vui chơi giải trí trên địa bàn tỉnh để kéo khách nội địa từ Hà Nội và các tỉnh lân cận đến Bắc Ninh.
2.1.2. Tài nguyên du lịch
2.1.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
a. Địa hình
Địa hình của tỉnh Bắc Ninh tương đối bằng phẳng, có hướng dốc chủ yếu từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông, được thể hiện qua các dòng chảy mặt đổ về sông Đuống và sông Thái Bình. Độ dốc địa hình không lớn, vùng đồng bằng cao từ 3 - 7m, địa hình đồi trung du cao khoảng 300 – 400m. Diện tích đồi núi chiếm tỷ lệ rất nhỏ (0,53%) so với tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh.
Địa hình đồng bằng chiếm phần lớn diện tích tạo điều kiện thuận lợi cho việc định cư và phát triển sản xuất, hình thành nên những làng quê trù phú, thanh bình, đặc trưng của vùng ĐBBB với những nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt. Đây cũng là nơi tập trung với mật độ dày đặc các di tích lịch sử - văn hóa, các làng nghề truyền thống và các loại hình văn hóa dân gian đặc sắc, có giá trị hấp dẫn KDL.
b. Khí hậu
Bắc Ninh thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh. Nhiệt độ trung bình năm 23,3oC, nhiệt độ trung bình tháng cao nhất 28,9oC (tháng 7), nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất là 15,8oC (tháng 1), biên độ nhiệt là 13,1oC. Lượng mưa trung bình hàng năm dao động trong khoảng 1.400 - 1.600mm nhưng phân bố không đều trong năm. Mưa tập trung chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau chỉ chiếm 20% tổng lượng mưa trong năm.
Khí hậu 4 mùa tạo nên cảnh sắc làng quê thay đổi theo thời gian cuốn hút KDL với khung cảnh mờ ảo trong mưa phùn nhưng náo nức không khí lễ hội vào mùa xuân; rộn ràng thu hoạch mùa màng trong mùa hạ; êm ả, thanh bình trong sắc màu không gian rõ nét của mùa thu và tĩnh lặng, trầm mặc trong mùa đông lạnh giá.
c. Sông ngòi
Bắc Ninh là tỉnh có hệ thống sông ngòi khá dày đặc, mật độ trung bình 1,0 – 1,2 km/ km2. Trên địa bàn tỉnh có 3 sông chính chảy qua gồm: Sông Thái Bình, sông Cầu và sông Đuống. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh còn có một số con sông nhỏ chảy qua như: Sông Cà Lồ, sông Ngũ Huyện Khê, sông Cẩm Giàng, sông Dâu, sông Đông Côi, ... và nhiều ngòi, lạch.
Các sông này, đặc biệt là sông Thái Bình, sông Cầu và sông Đuống là những con sông chảy qua những làng mạc trù phú, có lịch sử phát triển lâu đời. Các di tích lịch sử - văn hóa có giá trị của Bắc Ninh hình thành cùng làng mạc dọc sông; các truyền thuyết dân gian, những làn điệu dân ca trữ tình đều hình thành ở đây. Tất cả tạo nên một bức tranh sinh động về làng quê Việt và là nguồn TNDL có giá trị để hình thành các sản phẩm DL độc đáo.
2.1.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
a. Di sản văn hóa phi vật thể Dân ca Quan họ Bắc Ninh
Dân ca Quan họ Bắc Ninh là nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc của người dân Bắc Ninh – Kinh Bắc. Dân ca Quan họ là sản phẩm tổng hòa của các loại hình văn hóa truyền thống của làng xã Bắc Ninh trên cơ sở kế thừa, sáng tạo và hòa nhập các loại hình văn hóa khác.
Trong dân gian có nhiều giả thuyết, giai thoại khác nhau về thời gian khởi thủy của Quan họ. Các tác giả Lê Danh Khiêm, Hoắc Công Huynh và Lê Thị Chung trong cuốn “Không gian văn hóa Quan họ” cho rằng Quan họ ra đời sớm nhất ở thế kỉ XVII khi kinh tế hàng hóa tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển là điều kiện giao lưu quan trọng làm xuất hiện tục kết chạ giữa các làng Quan họ, từ đó dẫn đến sự ra đời của Quan họ. Các làng Quan họ phân bố chủ yếu ở xung quanh sông Cầu và sông Ngũ Huyện Khê. Ở Bắc Ninh có 44 làng quan họ gốc mà làng Diềm chính là quê hương Thủy Tổ Quan họ [12], [Phụ lục 01].
Hình 2.2. Bản đồ tài nguyên du lịch tỉnh Bắc Ninh
(Nguồn: Tác giả biên vẽ)
Hình 2.2. Bản đồ tài nguyên du lịch tỉnh Bắc Ninh
Tục kết chạ ở các làng Quan họ khác biệt với tục kết chạ ở các địa phương khác trong vùng ĐBBB. Đó là sự kết chạ bằng một hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian. Từ tục kết chạ, trong các bọn Quan họ xuất hiện một tập quán xã hội đặc biệt là tục kết bạn Quan họ. Mỗi bọn Quan họ của một làng đều kết bạn với một bọn Quan họ ở làng khác theo nguyên tắc bọn Quan họ nam kết bạn với bọn Quan họ nữ và ngược lại. Với các làng đã kết chạ, các liền anh, liền chị trong các bọn quan họ đã kết bạn không được cưới nhau. Mỗi bọn Quan họ chỉ được có 5 liền anh hoặc 5 liền chị và được phân định thành tên phiếm chỉ theo thứ tự số lượng từ anh (chị) Hai đến anh (chị) Sáu dựa vào quan niệm về âm dương ngũ hành phương Đông.
Sinh hoạt dân ca Quan họ Bắc Ninh đòi hỏi tính chất quy củ, khuôn phép chặt chẽ, tuân theo lề lối nhất định thông qua nhiều hình thức diễn xướng như: Hát canh, hát hội, hát chúc, hát mừng, hát thờ, ... Trong đó, hát canh và hát đối đáp là hai hình thức đặc trưng tiêu biểu và độc đáo của dân ca Quan họ Bắc Ninh. “Trong sáu tỉnh người đà chưa tỏ/ Ngoài năm thành chỉ có Bắc Ninh/ Yêu nhau trở lại xuân đình/ Nghề chơi Quan họ có tinh mới tường”[12].
Nhiều nhà nghiên cứu đánh giá nét độc đáo của dân ca Quan họ Bắc Ninh là truyền thống ứng tác nơi trình diễn. Trên các lời ca cũ, các liền anh, liền chị Quan họ có thể ứng tác đặt lời để đối giọng, đối nghĩa. Dân ca Quan họ Bắc Ninh có tổng số giọng (điệu) nhiều nhất trong các loại hình dân ca Việt Nam với 213 giọng (điệu) khác nhau và hơn 300 bài Quan họ đã được kí âm.
Dân ca Quan họ Bắc Ninh là sự sáng tạo nghệ thuật trong việc xử lí quan hệ giữa âm nhạc và ca từ. Quan họ Bắc Ninh là loại dân ca nhiều làn điệu, mỗi giọng điệu có lời ca riêng, giữa nhạc và lời gắn bó hữu cơ với nhau. Với việc sử dụng 4 kĩ thuật hát: Vang, rền, nền, nảy, dân ca Quan họ Bắc Ninh đã đạt đến độ nhuần nhuyễn theo những chuẩn mực nhất định.
Khác biệt của dân ca Quan họ Bắc Ninh so với các loại hình dân ca ở Việt Nam trong việc truyền dạy là tục "ngủ bọn". Sau một ngày lao động, đêm
đến bọn Quan họ, nhất là thiếu niên nam, nữ từ 9 đến 16, 17 tuổi thường rủ nhau "ngủ bọn" nhà ông/ bà Trùm để học câu, luyện giọng: Phải học đủ lối, đủ câu, luyện giọng sao cho "vang, rền, nền, nảy", tập nói năng, ứng xử, giao tiếp và phải biết đặt câu, bẻ giọng, ứng đối kịp thời. Yêu cầu với tục "ngủ bọn" là liền anh/ liền chị phải ghép và luyện sao cho từng đôi một thật hợp giọng nhau để đi hát [2], [5].
Với những nét độc đáo cùng sự phong phú về lời ca, hình thức, không gian diễn xướng, … Ngày 30/ 9/ 2009, dân ca Quan họ Bắc Ninh đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây chính là nguồn tài nguyên du lịch quan trọng nhất để thiết kế các tour du lịch đón du khách đến với Bắc Ninh để họ được đắm mình vào không gian văn hóa Quan họ.
b. Di tích lịch sử -văn hóa
Với bề dày lịch sử lâu đời đã tạo cho Bắc Ninh có rất nhiều các di tích lịch sử - văn hoá phản ánh lối sống, phong tục tập quán, hoạt động sản xuất của người dân. Đây là nguồn TNDL quan trọng cho sự phát triển của ngành du lịch.
Tỉnh Bắc Ninh có khoảng 1.259 điểm di tích. Tính đến tháng 12/2014, có 428 điểm di tích lịch sử - văn hoá đã được xếp hạng (gồm 191 di tích được công nhận là di tích cấp quốc gia và 237 di tích được công nhận di tích cấp địa phương); đứng thứ 11 trên cả nước về số lượng di tích. Nếu so với các địa phương trong vùng DL ĐBSH & DHĐB thì Bắc Ninh đứng thứ 6 sau Hà Nội, Ninh Bình, Hà Nam, Nam Định và Vĩnh Phúc. Tuy nhiên nếu so sánh về mật độ di tích thì Bắc Ninh chỉ đứng sau Thủ đô Hà Nội (153,03 di tích/ 100 km2 so với 155,45 di tích/ 100 km2 ) trong vùng ĐBSH & DHĐB, các địa phương còn lại mật độ di tích đều dưới 100 di tích/ km2 [16], [24].
Các di tích này phân bố ở khắp các địa phương trong tỉnh nhưng mức độ tập trung lại khác nhau rõ rệt.
Bảng 2.1. Các di tích lịch sử - văn hóa được công nhận cấp quốc gia và địa phương phân theo đơn vị hành chính tỉnh Bắc Ninh năm 2014
Huyện, thị xã, thành phố | Diện tích (km2) | Số được công nhận | Cấp di tích, mật độ | ||||
Quốc gia | Mật độ (di tích/ km2) | Địa phương | Mật độ (di tích/ km2) | ||||
1 | TP. Bắc Ninh | 82,6 | 76 | 41 | 0,50 | 35 | 0,42 |
2 | TX.Từ Sơn | 61,3 | 78 | 42 | 0,68 | 36 | 0,58 |
3 | Tiên Du | 95,7 | 52 | 23 | 0,24 | 29 | 0,30 |
4 | Yên Phong | 96,9 | 62 | 32 | 0,33 | 30 | 0,30 |
5 | Quế Võ | 154,8 | 28 | 9 | 0,06 | 19 | 0,12 |
6 | Gia Bình | 107,8 | 43 | 10 | 0,09 | 33 | 0,30 |
7 | Lương Tài | 105,7 | 36 | 10 | 0,09 | 26 | 0,24 |
8 | Thuận Thành | 117,9 | 53 | 24 | 0,20 | 29 | 0,25 |
Toàn tỉnh | 822,71 | 428 | 191 | 0,23 | 237 | 0,29 |
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Sở Lí Luận Và Thực Tiễn Về Phát Triển Du Lịch Và Hội Nhập Chương 2. Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Và Thực Trạng Phát Triển Du Lịch Ở Bắc
- Những Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Sự Phát Triển Du Lịch
- Tình Hình Phát Triển Du Lịch Việt Nam Trong Thời Kì Hội Nhập
- Phát triển du lịch tỉnh Bắc Ninh trong thời kì hội nhập - 7
- Lao Động Có Việc Làm Phân Theo Khu Vực Kinh Tế Của Tỉnh Bắc Ninh Năm 2014
- So Sánh Lượng Khách Du Lịch Bắc Ninh Với Vùng Đbsh & Dhđb Giai Đoạn 2005 – 2011
Xem toàn bộ 146 trang tài liệu này.
(Nguồn: [25], [26])
Các địa phương tập trung nhiều di tích lịch sử - văn hóa xếp hạng là thị xã Từ Sơn, Yên Phong, thành phố Bắc Ninh và Tiên Du. Trong số 1.259 điểm di tích có 26 điểm di tích quan trọng [Phụ lục 03].
Hệ thống di tích lịch sử - văn hóa với mật độ dày đặc với những nét độc đáo riêng về nghệ thuật kiến trúc là minh chứng rõ nét cho vùng văn hiến Bắc Ninh – Kinh Bắc. Đây là lợi thế so sánh đặc biệt của địa phương để phát triển sản phẩm DL đặc thù nhằm thu hút KDL đặc biệt là khách quốc tế muốn tìm hiểu văn hóa truyền thống Việt Nam nói chung và văn hóa xứ Bắc Ninh – Kinh Bắc nói riêng.
c. Lễ hội truyền thống
Bắc Ninh – Kinh Bắc là xứ sở của hội hè đình đám. Mỗi lễ hội đều có nét tiêu biểu, đặc trưng riêng và gắn liền với những sự kiện lịch sử, văn hóa của quê hương, đất nước.
Lễ hội truyền thống diễn ra quanh năm nhưng chủ yếu diễn ra vào mùa xuân để tưởng nhớ các danh nhân lịch sử - văn hóa, những người có công chống giặc ngoại xâm, xây dựng quê hương, người có công truyền nghề cho làng xã và được suy tôn là thần, thánh. Hầu như phần lễ trong lễ hội nào cũng là nghi thức quan trọng nhất, thể hiện đậm đặc, rõ nét nhất ý nghĩa tâm linh, tôn vinh, ngưỡng vọng đối với các danh nhân được tôn thờ. Ở nhiều lễ hội đã diễn lại các tích truyện, tái hiện sinh động công trạng của danh nhân. Bên cạnh đó, những hoạt động văn hoá, trò chơi dân gian tiêu biểu như: Đánh đu, thi thổi cơm, dệt vải, đấu vật, kéo co, … cũng thể hiện sự gắn kết cộng đồng làng xã, tạo sự phong phú cho lễ hội dân gian vùng quê Bắc Ninh - Kinh Bắc.
Tính đến nay, trong số hơn 600 lễ hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có khoảng hơn 40 lễ hội quan trọng, được duy trì tổ chức hàng năm. Trong đó có 10 lễ hội có ý nghĩa đặc biệt và có tầm ảnh hưởng lớn có thể kể đến như: Lễ hội chùa Phật Tích, hội Lim, hội làng Tam Tảo (Tiên Du); hội Diềm, hội đền Bà Chúa Kho (TP. Bắc Ninh); hội Kinh Dương Vương; hội chùa Dâu (Thuận Thành); hội đền Đô (Từ Sơn); hội Thập Đình (Quế Võ); hội đền Cao Lỗ Vương (Gia Bình) [13], [25], [Phụ lục 02].
* Lễ hội Lim
Trong dân gian ngày nay, mọi người vẫn truyền nhau câu ca: “Quai thao nâng dải lụa đào/ Trầu têm cánh phượng em vào hội Lim”. Hội Lim được mở vào ngày 13 tháng Giêng Âm lịch hàng năm. Trung tâm diễn ra lễ hội là khu di tích núi Lim thuộc xã Lũng Giang thị Trấn Lim (huyện Tiên Du, Bắc Ninh), đây là lễ hội truyền thống đặc sắc và riêng có của quê hương Kinh Bắc ngàn năm văn hiến.
Hội Lim đã bắt đầu diễn ra cách đây 300 năm, ban đầu đó là hình thức kết hợp giữa hội chạ của 6 xã thuộc Tổng Nội Duệ (Nội Duệ, Nội Duệ Khánh, Nội Duệ Nam, Lũng Giang, Xuân Ổ và giáo phường Tiên Du) và hội chùa Hồng Ân (chùa Lim) vào ngày rằm tháng Tám. Hơn 40 năm sau, vào cuối thế kỷ VXIII, Nguyễn Đình Diễn người làng Đình Cả (Nội Duệ) làm Trấn thủ