Phát triển du lịch huyện Củ Chi theo hướng bền vững - 4

cũng như ở Việt Nam ngày càng tăng, theo UNWTO ( Tổ chức Du lịch thế giới), có hơn 70% số du khách được thích đi du lịch biển.

- Các di tích tự nhiên: các quá trình nội lực và ngoại lực đã tạo thành trên bề mặt địa hình nhiều di tích tự nhiên có giá trị thẫm mỹ. Trong đó nhiều di tích tự nhiên do không giải thích được nguyên nhân khoa học hình thành chúng, nên con người đã dệt cho nó những huyền thoại. Do vậy, nhiều di tích tự nhiên đã trở thành những điểm tham quan hấp dẫn du khách như hòn Chồng ( Nha Trang), hòn Trống Mái ( Sầm Sơn- Thanh Hóa), hòn Gà Chọi ( Vịnh Hạ Long), giếng Giải Oan ( Chùa Hương – Hà Tây).

Khí hậu

Khí hậu là một loại tài nguyên sớm được khai thác để quy hoạch phát triển du lịch. Từ cuối thế kỷ XVIII đến những năm đầu thế kỷ XX đã có nhiều dự án quy hoạch phát triển du lịch ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam, ở những nơi có khí hậu trong lành, mát mẻ như: Dovos, Crans – Montana, Lesyin ở Thụy Sỹ, Kitzibuhel Cista,…ở Đức, Shimla, Dazilung, Neinitan ở Ấn Độ, núi Thái Sơn ở Trung Quốc; Sapa, Đà Lạt, Bạch Mã, Ba Vì, Mẫu Sơn, Bà Nà, Tam Đảo ở Việt Nam. Các điều kiện của tài nguyên khí hậu phục vụ cho việc chữa bệnh, an dưỡng; tài nguyên khí hậu phục vụ cho các mục đích phát triển du lịch khá đa dạng như: Tài nguyên khí hậu thích hợp với sức khỏe của con người; tài nguyên khí hậu phục vụ cho việc chữa bệnh, an dưỡng; tài nguyên khí hậu phục vụ cho các hoạt động thể thao mùa đông; tài nguyên khí hậu thích hợp cho hoạt động du lịch tắm, lặn biển và thể thao biển…

Tài nguyên nước

Nước được coi là tài nguyên quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch nói chung và để phát triển nhiều loại hình du lịch. Các loại tài nguyên nước sau đây đã được khai thác là tài nguyên du lịch:

- Nước mặt: sông, hồ, suối, thác nước, các vùng ngập nước ngọt, các vùng nước ven biển. Bề mặt nước của sông, hồ, suối, thác nước, các vùng ngập nước ngọt, các vùng nước biển đã kết hợp với các tài nguyên khác như núi non, rừng cây tự nhiên, hệ sinh thái nhân văn tạo ra những phong cảnh nên thơ, hữu tình hấp dẫn du khách.

+ Các vùng nước ven biển có bãi cát đẹp hoặc ven các hồ, có môi trường trong sạch, độ mặn phù hợp từ 30- 40‰, độ trong suốt cao, thường được khai thác để phát triển các loại hình thể thao, bơi lội, lặn biển, tắm biển, đua thuyền, lướt ván như các bãi biển ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới.

Bề mặt nước ven các bãi biển, trên các hồ, các sông suối, kênh rạch có động tham

quan trên nước. Ví dụ như ở Sidney, Menbourn ( Austraylia), trên các hồ lớn như Ngũ Hồ ( Canada- Hoa Kỳ), trên các sông, kênh rạch ở Thái Lan, trên sông Mê Kông ở Việt Nam, Lào, Campuchia, …

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.

+ Các thác nước cũng đã tạo nơi có phong cảnh đẹp và hấp dẫn du khách có thể triển khai các hoạt động du lịch tham quan và thể thao mạo hiểm.

- Các điểm nước khoáng, suối nước nóng

Phát triển du lịch huyện Củ Chi theo hướng bền vững - 4

Các điểm nước khoáng, suối nước nóng là tài nguyên thiên nhiên quý để triển khai các loại hình du lịch, nghỉ dưỡng, tắm khoáng, chữa bệnh. Trên thế giới, những nước giàu nguồn nước khoáng cũng là những nước phát triển loại hình du lịch chữa bệnh nghỉ dưỡng dựa vào nguồn nước khoáng như Liên Bang Nga, Bungari, Hungari, Thụy sỹ, Áo, Italia, CHLB Đức, CH Séc và Slôvakia,...

Tài nguyên sinh vật

Tài nguyên sinh vật bao gồm toàn bộ các loài thực vật, động vật sống trên lục địa và dưới nước vốn có sẵn trong tự nhiên và do con người thuần dưỡng, chăm sóc, lai tạo.

Tài nguyên sinh vật vừa góp phần cùng với các loại tài nguyên khác tạo nên phong cảnh đẹp, hấp dẫn, vừa có ý nghĩa bảo vệ môi trường như: bảo tồn các nguồn gen, che phủ cho mặt đất, hạn chế hiện tượng xói mòn, xâm thực, rửa trôi, lở đất, trượt đất, lũ quét, lở trượt băng tuyết ở các miền núi, hạn chế được hiện tượng xâm thực, tác dụng tiêu cực của sóng thần, các vùng ven biển. Thảm thực vật còn cung cấp chất mùn cho thổ nhưỡng, được coi là máy điều hòa tự nhiên, lọc không khí, làm cho không khí thêm trong lành, mát mẻ.

Tài nguyên sinh vật là nguồn cung cấp nhiều loại dược liệu cho việc phát triển loại hình du lịch chữa bệnh và an dưỡng như ( tắm thuốc của người Dao Đỏ ở Sapa – Lào Cai); cung cấp nguồn thực phẩm cho du khách. Vì vậy, tài nguyên sinh vật có ý nghĩa cho việc phát triển nhiều loại hình du lịch như: du lịch chữa bệnh, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, đi bộ, leo núi, lặn biển, tham quan, nghiên cứu), cùng với các tài nguyên nước và địa hình góp phần phát triển du lịch sông nước, miệt vườn.

Vườn quốc gia

Là nơi tập trung đa dạng sinh học cao, trong đó có nhiều loài động – thực vật đặc hữu, quý hiếm, nhiều VQG có khả năng hấp dẫn du khách cao, thuận lợi cho việc phát triển các loại hình du lịch sinh thái.

Khu bảo tồn thiên nhiên

Là một khu vực tự nhiên trên đất liền hoặc trên biển, được thành lập để bảo tồn bền

vững các HST chưa hoặc bị biến đổi rất ít và có các loài động – thực vật đặc hữu hoặc đang bị đe dọa. KBT không có chức năng hoạt động du lịch sinh thái và không khuyến khích phát triển du lịch sinh thái mà thiên về mục tiêu bảo tồn các HST nhiều hơn.

Khu bảo tồn loài và nơi cư trú

Là khu vực trên đất liền hay trên biển, được quản lý bằng các biện pháp tích cực nhằm duy trì các nơi cư trú và đảm bảo sự sống lâu dài của các loài động vật, kể cả các loài sinh vật biển đang có nguy cơ bị tiêu diệt”.

Khu bảo tồn cảnh quan

Là khu vực đất liền, đất ngập nước trên biển và ven biển, có tác động qua lại giữa con người và thiên nhiên lâu đời nên đã tạo ra một khu vực có giá trị cao về thẩm mỹ, sinh thái, văn hóa và lịch sử, đôi khi cũng có giá trị ĐDSH cao. Việc duy trì tính toàn vẹn của các mối tác động qua lại truyền thống này là điểm cốt lõi của công tác bảo vệ, duy trì và phát triển KBT thuộc hạng này”.

Một số HST đặc biệt

Các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam có một số HST đặc biệt có sự ĐDSH tiêu biểu cho thiên nhiên ở mỗi vùng, có khả năng hấp dẫn du khách, có ý nghĩa cho việc bảo vệ môi trường, bảo vệ sự ĐDSH.

Ví dụ: Ở những vùng ven biển có HST rừng ngập mặn, nếu việc quy hoạch phát triển du lịch hoặc các hoạt động kinh tế khác không hợp lý, hệ thực vật bị chặt phá sẽ kéo theo sự xâm thực các vùng đất ven biển, mất đi nơi ở sinh sản và kiếm ăn của nhiều loài thủy sản, nhiều loài thú, bò sát, lưỡng cư và các loài và các loài chim nước. Ở HST này, các loại cây con thường được mọc ra từ rễ của cây lớn, các cây lớn sẽ nuôi dưỡng và bảo vệ cho các cây con, các loài thực vật có bộ rễ phát triển sống đan chặt vào nhau, cùng nhau tồn tại. Do vậy, việc trồng rừng ngập mặn rất tốn kém và khó có hiệu quả.

Các điểm tham quan sinh vật

Là những khu vực trên đất liền hoặc trên các đảo được đầu tư quy hoạch xây dựng để bảo tồn, nuôi dưỡng các loài động – thực vật quý hiếm, các HST nhằm mục đích bảo tồn sự ĐDSH, nghiên cứu phổ biến khoa học, giáo dục cộng đồng, tìm hiểu cảm nhận môi trường sống. Việc quản lý, bảo tồn động vật hoang dã và phục vụ giải trí, phát triển du lịch sinh thái , tìm hiểu văn hóa của cư dân bản địa ở các điểm tham quan sinh vật chủ yếu tại các công viên quốc gia, các trang trại, miệt vườn. Ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có nhiều điểm tham quan sinh vật hấp dẫn du khách

- Các cảnh quan du lịch tự nhiên

Điểm du lịch tự nhiên là nơi có dạng TNDL hấp dẫn du khách. Có những điểm du lịch tự nhiên đã được đầu tư khai thác vào mục đích phát triển du lịch gọi là các điểm du lịch tự nhiên đã được hình thành. Có những điểm du lịch tự nhiên có dạng tài nguyên hoặc các bộ phận của nó có sức hấp dẫn du khách, nhưng chưa được đầu tư khai thác phát triển du lịch gọi là các điểm du lịch tiềm năng.

Theo Khoản 8 ( Điều 4, Chương 1) Luật Du lịch Việt Nam năm 2005, có thể định nghĩa: Điểm du lịch tự nhiên là nơi có TNDL hấp dẫn du khách.

Theo Khoản 1,2 ( Điều 2,4, Chương IV) Luật Du lịch Việt Nam năm 2005, các điểm du lịch tự nhiên cấp Quốc gia phải đảm bảo các điều kiện sau:

- Có TNDL tự nhiên đặc biệt hấp dẫn đối với nhu cầu tham quan của khách du lịch.

- Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết, khả năng đảm bảo phục vụ ít nhất 100000 lượt khách tham quan một năm.

Dựa theo khái niệm về du lịch, theo Khoản 7 ( Điều 4, Chương I) Luật Du lịch Việt Nam năm 2005, có thể định nghĩa khu du lịch tự nhiên như sau:

“ Khu du lịch tự nhiên là nơi có TNDL tự nhiên có ưu thế nổi bật về cảnh quan thiên nhiên, hấp dẫn du khách, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch”

- Di sản thế giới- Di sản thiên nhiên thế giới

Di sản thế giới

Theo UNESCO, Di sản thế giới là: “ Di chỉ hay di tích của một quốc gia như rừng núi, dãy núi, hồ, sa mạc, tòa nhà, quần thể kiến trúc hay thành phố,…do các nước có tham gia Công ước Di sản thế giới đề nghị cho chương trình Quốc tế Di sản thế giới, được nhận và quản lý bởi UNESCO. Sau đó Chương trình Quốc tế Di sản thế giới sẽ lập danh sách, đặt tên, bảo tồn những vị trí nổi bật về văn hóa hay đặc điểm tự nhiên cho di sản nhân loại chung”.

Việt Nam tham gia vào Công ước Di sản thế giới năm 1978. Di sản thế giới gồm có: DSTN thế giới, DSVH thế giới, DSVH và TN thế giới.

Năm 1989, tại phiên họp Đại hội đồng UNESCO đã đưa ra hai chính sách để công nhận một danh hiệu cho một sản phẩm văn hóa phi vật thể là kiệt tác DSVH truyền miệng và phi vật thể của nhân loại.

Từ năm 1978 đến ngày 29 tháng 6 năm 2007, Hội đồng Di sản thế giới UNESCO đã

công nhận 851 di sản thế giới gồm 660 DSVH, 166 DSTN, 25 DSVH & TN.

Di sản tự nhiên thế giới

Là các công trình thiên nhiên hợp thành bởi những thành tựu vật lý và sinh học hoặc những nhóm thành hệ có một giá trị toàn cầu, đặc biệt về mặt thẫm mỹ hoặc khoa học, các thành hệ địa chất và địa văn, các miền được phân định ranh giới rõ ràng, làm nơi sinh sống của các loài động vật và thực vật bị đe dọa, đặc biệt về các mặt khoa học, bảo tồn hoặc vẻ đẹp thiên nhiên.

* Nhóm tài nguyên du lịch nhân văn

Tài nguyên du lịch nhân văn là tài nguyên có nguồn gốc nhân tạo do con người sáng tạo ra. Tuy nhiên chỉ có những tài nguyên nhân văn có sức hấp dẫn với du khách và có thể khai thác phát triển du lịch để tạo ra hiệu quả xã hội, kinh tế, môi trường mới được gọi là tài nguyên du lịch nhân văn.

Vì vậy tài nguyên du lịch nhân văn thường là những giá trị văn hóa tiêu biểu, đặc sắc của mỗi địa phương, mỗi quốc gia. Du khách đi du lịch là để trải nghiệm, tìm hiểu, hưởng thụ các giá trị về văn hóa, giá trị về thiên nhiên, nên những tài nguyên du lịch nhân văn đặc sắc, độc đáo ở mỗi địa phương, ở mỗi quốc gia có tính hấp dẫn lớn đối với du khách.

Các tài nguyên du lịch nhân văn

- Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể gồm:

+ Di sản văn hóa thế giới vật thể.

+ Các di tích lịch sử văn hóa, danh thắng cấp quốc gia và địa phương.

+ Các cổ vật và bảo vật quốc gia.

+ Các công trình đương đại.

- Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể gồm:

+ Di sản văn hóa thế giới truyền miệng và phi vật thể.

+ Các lễ hội truyền thống.

+ Nghề và làng nghề thủ công cổ truyền.

+ Văn hóa nghệ thuật.

+ Văn hóa ẩm thực.

+ Văn hóa ứng xử, phong tục, tập quán.

+ Thơ ca và văn học.

+ Văn hóa các tộc người.

+ Các phát minh, sáng kiến khoa học.

+ Các hoạt động văn hóa thể thao, kinh tế- xã hội có tính sự kiện.


1.1.5. Các loại hình du lịch‌


- Du lịch tham quan

Tham quan là hoạt động quan trọng của con người để nâng cao hiểu biết về thế giới xung quanh. Đối tượng tham quan có thể là một tài nguyên du lịch tự nhiên như một phong cảnh kỳ thú, cũng có thể là tài nguyên du lịch nhân văn như một di tích, một công trình đương đại hay một cơ sở nghiên cứu khoa học, cơ sở sản xuất,…

- Du lịch giải trí

Những người đi du lịch theo loại hình này nhằm mục đích tách khỏi sự căng thẳng, đơn điệu của công việc hàng ngày, tìm kiếm sự thư giãn thoải mái thông qua các hoạt động giải trí ở điểm đến du lịch. Có thể có nhu cầu tham quan hoặc các nhu cầu khác, song mục tiêu đó không phải là cơ bản. Khách du lịch thường chọn một nơi yên bình, không đi lại nhiều.

- Du lịch kinh doanh

Không thể phủ nhận mục đích kinh tế trong chuyến đi của nhiều người, đặc biệt là thương gia. Mục đích chính của chuyến đi là tìm kiếm cơ hội đầu tư, cơ hội kinh doanh, tìm đối tác làm ăn,…Song đối với các cơ sở kinh doanh du lịch, đặc biệt là các cơ sở lưu trú, đây lại là đối tượng phục vụ đặc biệt. Đối với ngành du lịch Việt Nam trong thời gian qua, khách du lịch thương gia chiếm tỷ trọng khá lớn về số lượng ( trên 20%) và đặc biệt tỷ trọng chi tiêu của nhóm người này so với toàn bộ chi tiêu của khách du lịch luôn giữ ở mức cao nhất.

- Du lịch công vụ

Khách du lịch công vụ đến một nơi nào đó nhằm mục đích tham dự các hội nghị, hội thảo, hội chợ hoặc tăng cường quan hệ ngoại giao trao đổi văn hóa…Được coi là một loại hình du lịch vì các đại biểu cũng có nhu cầu về đi lại, ăn, ở, giải trí. Hơn nữa họ còn có những nhu cầu bổ sung như: tổ chức hội họp, MICE, thông tin liên lạc, dịch thuật,…và thường có khả năng chi trả lớn. Đặc điểm của loại hình du lịch này là tính thời vụ thường khá thấp.

- Du lịch thể thao

Đây là loại hình xuất hiện để đáp ứng lòng đam mê các hoạt động thể thao của mọi người. Để kinh doanh loại hình này, yêu cầu điểm du lịch phải có các điều kiện tự nhiên thích hợp và có cơ sở trang thiết bị phù hợp cho từng loại hình cụ thể. Mặt khác nhân viên

cũng cần được huấn luyện để có thể hướng dẫn và giúp đỡ cho khách du lịch chơi đúng quy cách.

- Du lịch nghỉ dưỡng

Là những địa điểm có không khí trong lành, khí hậu dễ chịu, phong cảnh ngoạn mục như các bãi biển, hồ, sông suối, suối nước nóng, vùng núi, vùng nông thôn,…Cho đến nay ngành du lịch Việt Nam chủ yếu vẫn kinh doanh loại hình du lịch này.

- Du lịch lễ hội

Mục đích du lịch lễ hội là tham gia vào các lễ hội được tổ chức ở một địa danh nổi tiếng nào đó, qua đó nâng cao hiểu biết về văn hóa, tăng cường mở rộng quan hệ giao tiếp. Lễ hội có thể là: lễ hội truyền thống, festival chuyên đề, liên hoan phim, âm nhạc,…

- Du lịch tôn giáo

Du lịch tôn giáo được hiểu là các chuyến đi của du khách chủ yếu để thỏa mãn các nhu cầu thực hiện các lễ nghi tôn giáo của tín đồ hay tìm hiểu, nghiên cứu tôn giáo của người dị giáo. Điểm đến của các luồng khách du lịch này là chùa chiền, nhà thờ, thánh địa…

- Du lịch mạo hiểm

Du lịch mạo hiểm dựa trên nhu cầu tự thể hiện mình, tự rèn luyện mình và khám phá bản thân của con người, đặc biệt là giới trẻ. Về loại hình du lịch này, Việt Nam là nước có lợi thế khá lớn bởi được thiên nhiên ưu đãi về các điều kiện địa hình và khí hậu. Với ¾ diện tích là đồi núi, có nhiều vực sâu, lại nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa nên tạo ra các vùng phù hợp cho du lịch khám phá.

- Du lịch nghiên cứu học tập

Đây là loại hình du lịch nhằm nâng cao, củng cố kiến thức đã học hoặc tìm hiểu sâu về các vần đề tò mò muốn tìm hiểu kiến thức bổ sung ở điểm đến du lịch.

- Du lịch thăm thân

Mục đích của chuyến đi du lịch theo loại hình này nhằm thăm viếng bà con, gia đình, bạn bè…trong quá trình đó họ kết hợp tham quan, tìm hiểu thêm về đặc trưng văn hóa, điều kiện tự nhiên của khu vực đó và sự thay đổi theo năm tháng mà họ muốn khám phá trải nghiệm. Theo thống kê của Tổng cục Du lịch Việt Nam, trong những năm gần đây, có khoảng 20 % số khách đến Việt Nam với mục đích thăm người thân.

- Một số loại hình du lịch đặc thù khác

Du lịch hoài niệm, du lịch văn hóa, du lịch di sản, du lịch nông nghiệp, du lịch đánh bạc, du lịch vườn,…

1.1.6. Phát triển bền vững‌


Phát triển được hiểu là một quá trình tăng trưởng bao gồm nhiều yếu tố cấu thành khác nhau về kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ thuật, văn hoá … Phát triển là xu hướng tự nhiên tất yếu của thế giới vật chất nói chung, của xã hội loài người nói riêng. Phát triển kinh tế - xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người bằng phát triển lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, nâng cao các giá trị văn hoá cộng đồng. Sự chuyển đổi của các hình thái xã hội từ xã hội công xã nguyên thuỷ lên chiếm hữu nô lệ lên phong kiến rồi chế độ tư bản … Được coi là một quá trình phát triển.

Mục tiêu của phát triển là nâng cao điều kiện và chất lượng cuộc sống của con người, làm cho con người ít phụ thuộc vào thiên nhiên, tạo lập một xã hội công bằng và bình đẳng giữa các thành viên. Các mục tiêu của phát triển thường được cụ thể hoá bằng những chỉ tiêu về đời sống vật chất như lương thực, nhà ở, điều kiện bảo đảm sức khoẻ và đời sống tinh thần như giáo dục, mức hưởng thụ văn hoá, nghệ thuật, sự bình đẳng xã hội, tự do chính trị, truyền thống lịch sử của từng quốc gia.

Sau một thời gian dài phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, bên cạnh những lợi ích xã hội, nâng cao điều kiện sống cho con người, hoạt động phát triển cũng đã và đang làm cạn kiệt tài nguyên, gây ra những tác động tiêu cực làm suy thoái môi trường Trái Đất. Trước những thực tế không thể phủ nhận là môi trường ngày càng bị ô nhiễm bởi chất thải từ các hoạt động kinh tế, nhiều hệ sinh thái đã bị suy thoái ở mức báo động, nhiều loài sinh vật đã và đang có nguy cơ bị diệt vong, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển của toàn xã hội qua nhiều thế hệ …Từ nhận thức này đã xuất hiện một khái niệm mới của con người về hoạt động phát triển, đó là “phát triển bền vững”.

Lý thuyết về phát triển bền vững xuất hiện từ những năm 80 của thế kỉ XX và chính thức đưa ra tại Hội nghị của Uỷ Ban thế giới về Phát triển và Môi trường (WCED) nổi tiếng với tên gọi của Uỷ ban Brundtlant năm 1987.

Trong định nghĩa của Brundtlant thì: “Phát triển bền vững được hiểu là hoạt động phát triển kinh tế nhằm đáp ứng các yêu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ mai sau”. Tuy nhiên nội dung chủ yếu của vấn đề này xoay quanh vấn đề kinh tế.

Một định nghĩa khác về phát triển bền vững được các nhà khoa học trên thế giới đề cập tới một cách tổng quát hơn: “Phát triển bền vững là các hoạt động phát triển của con người nhằm phát triển và duy trì trách nhiệm của cộng đồng đối với lịch sử hình thành và

Xem tất cả 144 trang.

Ngày đăng: 07/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí