- Khái niệm khách du lịch: Định nghĩa về khách du lịch xuất hiện lần đầu tiên vào cuối thế kỷ thứ XVIII tại Pháp. Thời bấy giờ các hành trình của người Đức, Hà Lan, Đan Mạch, Bồ Đào Nha và người Anh trên đất Pháp được chia làm hai loại: Hành trình lớn theo bờ Địa Trung Hải, xuống phía Tây Nam nước Pháp và vùng Bourgne; Hành trình nhỏ từ Paris đến miền Đông Nam nước Pháp. Khách du lịch được định nghĩa là người thực hiện một hành trình lớn ("Faire le grand tour").
Để có định nghĩa đầy đủ về "khách du lịch", chúng ta cần phân tích một số định nghĩa rút ra từ các Hội nghị quốc tế về du lịch sau đây:
+ Định nghĩa của Liên hiệp các quốc gia (năm 1937) về "khách du lịch nước ngoài" như sau: "Bất cứ ai đến thăm một đất nước khác với nơi cư trú thường xuyên của mình trong khoảng thời gian ít nhất là 24h" [16, tr.22].
+ Định nghĩa của Tiểu ban về các vấn đề kinh tế - xã hội trực thuộc Liên hợp quốc (United Nations Department of Economic and Social Affaires) năm 1978 về "khách viếng thăm quốc tế" (international visitor from abroad): “Khách viếng thăm quốc tế là tất cả những người từ nước ngoài đến thăm một đất nước (given country)
- chúng ta gọi là khách du lịch chủ động (inbound tourist); hoặc tất cả những người từ một nước đi ra nước ngoài viếng thăm - chúng ta gọi là khách du lịch thụ động (outbound tourist) với khoảng thời gian nhiều nhất là một năm” [16, tr.27].
+ Định nghĩa của Hội nghị quốc tế về du lịch tại Hà Lan năm 1989: “Khách du lịch quốc tế là những người đi thăm một đất nước khác với mục đích thăm quan, nghỉ ngơi, giải trí, thăm hỏi trong khoảng thời gian ít hơn ba tháng, những người khách này không được làm gì để được trả thù lao và sau thời gian lưu trú ở đó du khách trở về nơi ở thường xuyên của mình” [16, tr.28].
Như vậy, các định nghĩa đã nêu ở trên về khách du lịch ít nhiều có những điểm khác nhau, song nhìn chung chúng đều đề cập đến ba khía cạnh sau: Thứ nhất, đề cập đến động cơ khởi hành, động cơ ấy có thể là đi thăm quan, thăm người thân, nghỉ dưỡng, kết hợp kinh doanh trừ động cơ lao động kiếm tiền; Thứ hai, đề cập đến yếu tố thời gian trong đó đặc biệt chú trọng đến sự phân biệt giữa khách thăm quan trong ngày và khách du lịch là những người nghỉ qua đêm; Thứ ba, đề cập đến
những đối tượng là khách du lịch và những đối tượng không được xem là khách du lịch (ví dụ: khách quá cảnh, dân di cư, v.v...)
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Lào Cai - 1
- Phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Lào Cai - 2
- Trình Độ Văn Hóa Của Người Chủ Gia Đình Và Tỷ Lệ Đi Du Lịch (Theo Robert W.meintosh 1995)
- Xu Hướng Phát Triển Kinh Tế Du Lịch Trên Thế Giới
- Hiện Trạng Khách Du Lịch Quốc Tế Đến Các Nước Đông Nam Á Giai Đoạn 1995 - 2002
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
+ Định nghĩa về khách du lịch của Việt Nam, tại điều 34, chương V, luật du lịch Việt Nam, khách du lịch được hiểu như sau: “Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến” [31, tr.12]; “Khách du lịch gồm khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế”; “Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam”; “Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch; công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch” [31, tr.15].
- Các loại hình du lịch: Theo mục đích: Du lịch chữa bệnh, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch thể thao, du lịch công vụ, du lịch tôn giáo, du lịch thăm thân, du lịch thăm quan, nghiên cứu, du lịch mạo hiểm... Theo phạm vi lãnh thổ: Du lịch trong nước, du lịch quốc tế... Theo vị trí địa lý: Du lịch biển, du lịch nghỉ núi, du lịch đồng bằng... Theo việc sử dụng các phương tiện giao thông: Du lịch đi bộ, du lịch xe đạp, du lịch mô tô, du lịch ô tô, du lịch kinh khí cầu, du lịch máy bay, du lịch tàu hỏa, du lịch tàu thủy... Theo thời gian của cuộc hành trình: Du lịch ngắn ngày, du lịch dài ngày... Theo lứa tuổi: Du lịch thanh niên, du lịch thiếu niên, du lịch người cao tuổi... Theo hình thức tổ chức: Du lịch có tổ chức, du lịch cá nhân... Ngày nay, trên thế giới có rất nhiều cách phân loại du lịch dựa trên những tiêu chí khác nhau, đặc biệt ở các nước phát triển do nhu cầu của khách du lịch rất đa dạng nên các loại hình du lịch cũng rất phong phú ở mỗi nước, mỗi khu vực lại có những loại hình đặc trưng riêng với những sản phẩm du lịch đặc trưng. Chẳng hạn, ở Thái Lan phát triển loại hình du lịch sex thì ở Việt Nam chú trọng phát triển loại hình du lịch sinh thái...
Tóm lại, theo tác giả kinh tế du lịch có thể hiểu là ngành kinh tế dịch vụ, ngành kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực cung ứng sản phẩm du lịch, thoả mãn nhu cầu tinh thần của du khách, nhằm đem lại lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và bản thân doanh nghiệp du lịch. Kinh tế du lịch là
ngành công nghiệp không khói, ngành sản xuất phi vật chất nhưng mang lại những giá trị vật chất và tinh thần rất cao. Kinh tế du lịch ra đời và phát triển như một tất yếu khách quan, trở thành một ngành kinh tế độc lập với những đặc trưng riêng.
1.1.2. Đặc điểm của kinh tế du lịch
- Tính nhạy cảm: So với các ngành kinh tế khác ngành kinh tế du lịch có tính nhạy cảm hơn. Do ngành kinh tế du lịch gồm nhiều bộ phận tạo thành nên trong quá trình cung cấp dịch vụ đối với du khách nhà cung ứng cần bố trí chính xác về thời gian, có kế hoạch chu đáo chi tiết về nội dung các hoạt động, cần phải kết hợp một cách hữu cơ, liên hệ chặt chẽ giữa các khâu đi lại, du ngoạn, ăn, ở, vui chơi, giải trí, mua sắm... Giả sử một khâu nào đó không tuân thủ quá trình thì có thể gây ra hàng loạt phản ứng dây chuyền làm mất sự phối hợp nhịp nhàng trong cơ cấu tổ chức, ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ du lịch. Mặt khác, các nhân tố thiên nhiên, chính trị, kinh tế và xã hội đều có ảnh hưởng đến ngành kinh tế du lịch như chiến tranh, động đất, nạn khủng bố, đại dịch SAR, hay dịch cúm A H5N1... đều ảnh hưởng lớn, gây cản trở đối với sự phát triển của du lịch. Do đó, để khắc phục được "tính nhạy cảm" này ngành kinh tế du lịch cần phải chủ động để có chiến lược đúng đắn trong hoạt động của mình.
- Tính thời vụ: Do ảnh hưởng của yếu tố địa lý tự nhiên, thời tiết khí hậu, nên du lịch hầu khắp các nước đều mang "tính thời vụ". Tại điểm du lịch, điều kiện khí hậu có ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành tính thời vụ du lịch. Ví dụ, loại hình du lịch biển thường rất đông khách vào mùa hè, vắng khách vào mùa đông, ngược lại, loại hình du lịch leo núi, trượt tuyết thì thường vắng khách vào mùa hè nhưng lại nhiều khách vào mùa đông. Ngoài ra, tính thời vụ của du lịch có liên quan mật thiết tới việc sắp xếp ngày nghỉ của nhân viên, các kỳ nghỉ của học sinh sinh viên; sự bố trí sắp xếp này có ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của ngành kinh tế du lịch. Những nguyên nhân xuất phát từ yếu tố cung - cầu trên khiến hoạt động kinh doanh du lịch có tính mùa vụ rò rệt, ảnh hưởng tới tỷ lệ cung và cầu của du lịch, gây ra hiện tượng mùa thịnh thì cung du lịch không đủ cầu du lịch, mùa suy thì thiết bị và nhân viên phục vụ nhàn rỗi. Vì vậy, muốn tối đa hóa lợi nhuận người kinh doanh du lịch cần chú ý đầy đủ tới đặc điểm này để tìm mọi cách áp dụng các thủ thuật và
biện pháp hữu hiệu, cố gắng giảm thiểu sự chênh lệch giữa mùa thịnh, mùa suy, khai thác tối đa các thiết bị và tài nguyên du lịch nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế. Việc khắc phục tính mùa vụ trong kinh doanh du lịch luôn là vấn đề bức xúc cả về mặt thực tiễn cũng như về mặt lý luận trong lĩnh vực kinh doanh du lịch.
- Tính tổng hợp cao: Hoạt động du lịch là hoạt động có tính tổng hợp cao bởi vì trong quá trình hoạt động du lịch, khách du lịch có nhu cầu về ăn, ở, đi lại, du ngoạn, vui chơi, giải trí, mua sắm... Để đáp ứng các nhu cầu khác nhau đó nhà cung ứng du lịch cần cung cấp tuyến du lịch, tư vấn tin tức, cung cấp các phương tiện giao thông, khách sạn, nhà nghỉ cho du khách... Vì vậy, sản phẩm của ngành kinh tế du lịch là kết quả của nhiều bộ phận, là sản phẩm tổng hợp được biểu hiện ra bằng nhiều loại dịch vụ. Phạm vi hoạt động của ngành kinh tế du lịch bao gồm các khách sạn du lịch, công ty du lịch, giao thông du lịch, đơn vị bán hàng lưu niệm du lịch... và có cả các bộ phận sản xuất tư liệu vật chất (công nghệ dệt, ngành xây dựng...) và một số bộ phận sản xuất tư liệu phi vật chất (văn hóa, giáo dục, tôn giáo, khoa học kỹ thuật, hải quan, tài chính, bưu điện...). Nắm được đặc điểm tổng hợp của ngành kinh tế du lịch có ý nghĩa thực tế vô cùng quan trọng đối với việc quản lý kinh doanh của ngành. Các bộ phận trong ngành kinh tế du lịch không chỉ có đặc tính hướng đích thông qua nút “thỏa mãn nhu cầu của khách” mà còn liên hệ chặt chẽ với nhau. Bất cứ hành vi chậm trễ hoặc bỏ lỡ dịp của bất kỳ bộ phận nào cũng sẽ ảnh hưởng tới số lượng khách du lịch. Do vậy các bộ phận trong ngành kinh tế du lịch phải hỗ trợ lẫn nhau và cần thiết triển khai kinh doanh liên hợp. Nếu các doanh nghiệp du lịch theo đuổi lợi ích cục bộ, không phối hợp nhịp nhàng với các doanh nghiệp khác có liên quan thì hiệu quả kinh doanh của toàn ngành sẽ bị ảnh hưởng theo. Vì thế, thực hiện quản lý ngành nghề toàn diện trong ngành kinh tế du lịch là điều hết sức cần thiết.
- Tính đa ngành: Du lịch sẽ không phát triển được nếu không có sự trợ giúp của các ngành kinh tế - xã hội khác như bảo hiểm, y tế, giao thông vận tải, công an, môi trường... Ngược lại, du lịch cũng mang lại nguồn thu cho nhiều ngành kinh tế khác nhau thông qua các sản phẩm dịch vụ cung cấp cho khách du lịch như: điện, nước, hàng nông sản, hàng thủ công mỹ nghệ, tranh ảnh, sách báo... Nắm được đặc
tính đa ngành trong hoạt động du lịch đòi hỏi các cấp, các ngành, các địa phương cần phải có chính sách phối, kết hợp chặt chẽ, nhằm tạo ra "xung lực" mạnh mẽ cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
- Tính đa thành phần: Biểu hiện ở tính đa dạng trong thành phần khách du lịch, những người phục vụ du lịch, các cộng đồng dân cư trong khu du lịch, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ tham gia vào các hoạt động du lịch. Do đặc tính đa thành phần của ngành kinh tế du lịch mà nhiều loại hình du lịch khác nhau và dịch vụ mới đã ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu phong phú và đa dạng của du khách. Tuy nhiên, đặc tính đa thành phần trong lĩnh vực du lịch nếu không được khai thác một cách hợp lý sẽ dẫn đến sự bất đồng quan điểm giữa các cá nhân trong đoàn đi du lịch, cũng như mâu thuẫn trong nội bộ những người làm du lịch.
- Tính chi phí: Mục đích đi du lịch của các khách du lịch là hưởng thụ các sản phẩm du lịch chứ không phải với mục tiêu kiếm tiền. Du khách sẵn sàng trả những khoản chi phí trong chuyến đi của mình về các khoản dịch vụ như: ăn, uống, ở, đi lại và nhiều chi phí khác nhằm thực hiện được mục đích vui chơi, giải trí, hưởng thụ vẻ đẹp của thiên nhiên, giá trị văn hóa, lịch sử... Hiểu rò đặc tính này, các quốc gia, các nhà kinh doanh du lịch cần có biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, đa dạng các loại hình dịch vụ, nhằm thu hút khách du lịch, kéo dài thời gian lưu trú của du khách. Song thực tế ở một số điểm du lịch nhiều nhà kinh doanh du lịch đã lợi dụng đặc tính này để đẩy mức giá dịch vụ lên quá cao, làm cho sự tin tưởng của du khách đối với nhà cung ứng du lịch giảm sút. Những sai sót này sẽ lan truyền từ du khách này đến du khách khác làm ảnh hưởng đến hình ảnh của ngành kinh tế du lịch trong con mắt của du khách.
- Tính liên vùng: Biểu hiện thông qua các tuyến du lịch với một quần thể các điểm du lịch trong một khu vực, trong một quốc gia hay giữa các quốc gia với nhau. Mỗi điểm du lịch đều có những nét độc đáo, hấp dẫn riêng, song nó không thể tách khỏi xu thế thời đại và sự phát triển chung của khu vực và quốc gia. Vì vậy, bất cứ một khu vực, một quốc gia nào muốn phát triển du lịch cần phải đưa mình vào "quỹ đạo" chung của quốc tế và khu vực. Hoạt động du lịch ở một vùng, một quốc gia khó có thể phát triển du lịch nếu không có sự liên kết các tuyến, điểm du lịch trong phạm vi quốc gia cũng như trên toàn thế giới.
1.1.3. Nội dung phát triển kinh tế du lịch và tiêu chí đánh giá
* Phát triển kinh tế du lịch
Phát triển kinh tế là quá trình biến đổi nền kinh tế quốc dân bằng một sự gia tăng sản xuất và nâng cao mức sống của dân cư. Đối với các nước đang phát triển thì phát triển kinh tế là quá trình nền kinh tế chậm phát triển thoát khỏi lạc hậu, đói nghèo, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá; là sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự thay đổi cơ cấu kinh tế, thể chế kinh tế, văn hoá, pháp luật, thậm chí về kỹ năng quản lý, phong cách và tập tục. Tăng trưởng kinh tế là tiền đề và điều kiện tất yếu của phát triển kinh tế, nhưng không đồng nghĩa với phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là tăng thu nhập và sản phẩm bình quân đầu người. Phát triển kinh tế bao hàm ý nghĩa rộng hơn tăng trưởng kinh tế, vì trong tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người chỉ là thước đo về số lượng, chưa biểu thị được chất lượng. Về khía cạnh chất lượng, phát triển kinh tế có ý nghĩa rộng lớn hơn tổng sản phẩm thực tế của nền kinh tế, nó bao gồm hầu như tất cả các khía cạnh văn hoá, xã hội, chính trị. Cho nên, phát triển kinh tế không phải chỉ là sự tăng trưởng, vì nó có những mục tiêu khác với sự tăng trưởng đơn giản của tổng sản phẩm quốc dân. Sự phát triển là quá trình một xã hội đạt đến trình độ thoả mãn các nhu cầu mà xã hội ấy coi là cơ bản. Phát triển kinh tế được xem xét trước hết và cơ bản ở ba khía cạnh chính:
1) Tổng sản phẩm trong nước (GDP) hay tổng sản phẩm quốc dân (GNP) tính theo đầu người. Đây là chỉ tiêu tổng hợp, thể hiện đại thể và căn bản về trạng thái kinh tế, sự tăng trưởng và sự phát triển của một nước. Nhưng xét về mặt chất lượng, còn phải xem xét năng suất lao động chung và năng suất của các ngành, các vùng khác nhau, thu nhập của các tầng lớp dân cư và của các vùng khác nhau.
2) Mức độ thoả mãn các nhu cầu xã hội được coi là cơ bản, tức là các chỉ tiêu xã hội về phát triển; chúng phản ánh chất lượng của sự phát triển xét về nội dung phương thức sinh hoạt kinh tế như tuổi thọ bình quân, số calo theo đầu người, tỉ lệ người biết chữ, vv.
3) Cơ cấu của nền kinh tế, tính chất và sự thay đổi của nó.
Học thuyết trong kinh tế học tư sản cận đại và hiện đại nhằm chống khủng hoảng và suy thoái, chứng minh mối liên hệ biện chứng giữa các yếu tố kinh tế - kỹ thuật với tốc độ phát triển của nền kinh tế của mỗi nước. Lý thuyết phát triển dựa trên cơ sở ba nhóm vấn đề lớn: các tiềm năng kinh tế của sự phát triển; mối quan hệ hệ thống của các yếu tố kinh tế - kỹ thuật tạo nên sự phát triển ổn định; các chính sách, biện pháp kinh tế nhằm đạt các mục tiêu phát triển theo từng thời kỳ. Đặc điểm của lý thuyết phát triển là kết hợp sự điều tiết của nhà nước và sự điều tiết của thị trường; đưa ra các mô hình phát triển được thực hiện thông qua các chương trình phát triển quốc gia, nhà nước có thể điều chỉnh nhịp độ phát triển bằng các chính sách kinh tế để tạo nên sự phát triển ổn định, loại trừ được khủng hoảng.
Phát triển kinh tế theo chiều rộng: bằng cách tăng số lượng lao động, khai thác thêm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tăng thêm tài sản cố định và tài sản lưu động trên cơ sở kỹ thuật như trước. Trong điều kiện một nước kinh tế chậm phát triển, những tiềm năng kinh tế chưa được khai thác và sử dụng hết, nhất là nhiều người lao động chưa có việc làm thì phát triển kinh tế theo chiều rộng là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, nhưng đồng thời phải coi trọng phát triển kinh tế theo chiều sâu. Nó thể hiện ở chỗ mức tăng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân vừa dựa vào lực lượng lao động và tài sản cố định, vừa dựa vào cải tiến thiết bị, kỹ thuật, công nghệ và tăng năng suất lao động. Tuy nhiên, phát triển kinh tế theo chiều rộng có những giới hạn, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội thấp. Vì vậy, phương hướng cơ bản và lâu dài là phải chuyển sang phát triển kinh tế theo chiều sâu.
Phát triển kinh tế theo chiều sâu: chủ yếu nhờ đổi mới thiết bị, áp dụng công nghệ tiên tiến, nâng cao trình độ kỹ thuật, cải tiến tổ chức sản xuất và phân công lại lao động, sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn nhân tài, vật lực hiện có. Trong điều kiện hiện nay, những nhân tố phát triển theo chiều rộng đang cạn dần, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật trên thế giới ngày càng phát triển mạnh với những tiến bộ mới về điện tử và tin học, công nghệ mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học đã thúc đẩy các nước coi trọng chuyển sang phát triển kinh tế theo chiều sâu. Kết quả phát triển kinh tế theo chiều sâu được biểu hiện ở các chỉ tiêu: tăng hiệu quả
kinh tế, tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, giảm hàm lượng vật tư và tăng hàm lượng chất xám, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng hiệu suất của đồng vốn, tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo đầu người. Ở Việt Nam và một số nước chậm phát triển, do điều kiện khách quan có tính chất đặc thù, kinh tế chậm phát triển, nên phát triển kinh tế theo chiều rộng vẫn còn có vai trò quan trọng. Nhưng để mau chóng khắc phục sự lạc hậu, đuổi kịp trình độ phát triển chung của các nước trên thế giới, trước hết là các nước trong khu vực, thì phát triển kinh tế theo chiều sâu phải được coi trọng và kết hợp chặt chẽ với phát triển theo chiều rộng trong phạm vi cần thiết và điều kiện có cho phép.
Vậy có thể hiểu phát triển kinh tế du lịch là những hoạt động để phát triển ngành kinh doanh trong lĩnh vực cung ứng sản phẩm du lịch một cách bền vững và hiệu quả nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của du khách và đem lại lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và bản thân doanh nghiệp du lịch từ đó góp phần thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo, tăng nguồn thu cho ngân sách, tạo động lực để thúc đẩy các ngành kinh tế khác cùng phát triển.
Mọi quốc gia đang phát triển đều phấn đấu vì sự phát triển, nhưng mục tiêu cuối cùng của nó không chỉ dừng lại ở khía cạnh đáp ứng nhu cầu vật chất và tài chính cho cuộc sống con người. Phát triển là một quá trình chuyển dịch bền vững của toàn bộ hệ thống kinh tế và xã hội hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn cả về vật chất lẫn tinh thần. Những yếu tố cấu thành nên một xã hội như thế có thể là khác nhau nhưng người ta thường nói đến ba mục tiêu chung nhất của sự phát triển:
Một là, đáp ứng các nhu cầu cơ bản, thiết yếu của con người. Việc đạt được các nhu cầu thiết yếu cao hay thấp là tỷ lệ thuận với tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người. Phát triển kinh tế là điều kiện cần thiết để đạt các chỉ tiêu này và cải thiện cuộc sống. Do vậy gia tăng mức thu nhập bình quân đầu người, xóa bỏ nghèo đói tuyệt đối, tạo nhiều cơ hội về công ăn việc làm và giảm sự bất bình đẳng về thu nhập... là những điều kiện cần thiết nhưng không phải là duy nhất để phát triển.
Hai là, nâng cao mức sống của con người, tức là ngoài mục tiêu tăng thu nhập ra còn phải cải thiện công tác giáo dục và chú trọng nhiều hơn đến giá trị văn