Bảng 2.3. Thông tin thị trường khách du lịch quốc tế
Số lượng (người) | Tỷ lệ % | Các thông tin của mẫu điều tra khách du lịch | Số lượng (người) | Tỷ lệ % | |
Giới tính | Nghề nghiệp | ||||
Nam | 61 | 59,8 | Lĩnh vực chính trị XH | 14 | 13,7 |
Nữ | 41 | 40,2 | Lĩnh vực khoa học, nghiên cứu | 20 | 19,6 |
Độ tuổi | Đang là học sinh, SV | 17 | 16,7 | ||
Dưới 18 | 4 | 3,9 | Thất nghiệp hoặc công việc khác | 51 | 50,0 |
Từ 18 đến 35 | 40 | 39,2 | Mục đích của chuyến đi | ||
Từ 36 đến 55 | 51 | 50,0 | Tham quan, khám phá tự nhiên | 35 | 34,3 |
Trên 55 | 7 | 6,9 | Giải trí, nghỉ dưỡng, tắm biển | 43 | 42,2 |
Thông tin ảnh hưởng đến việc khách DL lựa chọn Phú Yên | Tìm hiểu VH, lịch sử | 18 | 17,6 | ||
Ti vi, đài, báo | 12 | 11,8 | Vì mục đích công việc, MĐ khác | 6 | 5,9 |
Internet | 52 | 51,0 | Xuất xứ của khách | ||
Qua sự giới thiệu của bạn bè | 11 | 10,8 | Trung Quốc, NB, HQ | 30 | 29,4 |
Giới thiệu từ các công ty DL | 9 | 8,8 | Các nước ĐNÁ | 18 | 17,6 |
Từ các thông tin tổng hợp khác | 18 | 17,6 | Nga | 20 | 19,6 |
Số lần đến Phú Yên | Úc | 12 | 11,8 | ||
Lần đầu | 60 | 58,8 | Các nước Châu Âu | 14 | 13,7 |
Lần thứ 2 | 35 | 34,3 | Các nước khác | 8 | 7,9 |
Từ 3 lần trở lên | 7 | 6,9 |
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển du lịch biển đảo tỉnh Phú Yên - 10
- Công Tác Quy Hoạch Và Phát Triển Du Lịch Biển - Đảo Tỉnh Phú Yên
- Đánh Giá Chung Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Phát Triển Dlbđ Tỉnh Phú Yên
- Kết Quả Đánh Giá Của Du Khách Về Chất Lượng Dịch Vụ Du Lịch (%)
- Kết Quả Tổng Hợp Đánh Giá Mức Độ Thuận Lợi Của Các Điểm Dlbđ Phú Yên
- Định Hướng Phát Triển Dlbđ Tỉnh Phú Yên Đến Năm 2025, Tầm Nhìn Đến Năm 2030
Xem toàn bộ 196 trang tài liệu này.
(Nguồn: Kết quả khảo sát thực tế, 2019)
Số lần khách đến Phú Yên: qua kết quả điều tra cho thấy, số lượng khách quốc tế đến lần đầu (58,8%); lần 2 (34,3%); lần 3 trở lên chiếm tỷ trọng không đáng kể (6,9%). So sánh với thị trường khách nội địa, tỷ trọng khách quốc tế trở lại trên 2 lần cao hơn.
Mục đích chuyến đi của khách: mục đích của khách quốc tế đến Phú Yên chủ yếu là thưởng ngoạn, nghỉ dưỡng tắm biển và tham quan khám phá tự nhiên, hai mục đích này chiếm tỷ lệ trên 76,5%, khám phá văn hóa bản địa, ẩm thực, thăm thân (23,5%).
Thông tin nghề nghiệp của khách: chiếm tới 50% khách có nghề nghiệp là lao động tự do hoặc bị thất nghiệp; số lượng khách quốc tế thất nghiệp đi du lịch không theo tour mà tự đi theo từng đôi, nhóm để tự tìm hiểu, khám phá. Nhóm khách này có mức chi tiêu không cao. Ngoài ra các dòng khách quốc tế là học sinh, sinh viên hoặc làm việc ở các lĩnh vực khoa học, nghiên cứu, giáo viên, ... chiếm thấp hơn (36,3%); tỷ lệ du khách làm việc trong các lĩnh vực chính trị xã hội có thu nhập ổn định, khả năng chi trả cao chỉ chiếm 13,7%.
Cơ cấu khách quốc tế: chiếm phần lớn là thị trường khách đến từ các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc (29,4%); tiếp theo đó là khách đến từ Nga (19,6%); các nước Đông Nam Á (17,6%) Úc (11,8%) các nước Châu Âu (13,7%); các nước khác chiếm (7,9%); (Biểu đồ 2.3).
Các nước Châu Âu 14%
Các nước khác 8%
TQ, NB, HQ
29%
Úc 12%
Các nước ĐNÁ 18%
Nga 19%
Biểu đồ 2.3. Cơ cấu thị trường khách du lịch quốc tế
Qua biểu đồ 2.3 cho thấy, khách du lịch quốc tế đến Phú Yên chủ yếu là khách đến từ các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc tiếp theo đó là khách đến từ Nga
và các nước Đông Nam Á. Đây là những dòng khách có mức chi tiêu bình thường. Khách du lịch tiềm năng có khả năng chi trả cao đến từ các nước phương Tây chiếm tỷ lệ rất ít. Để phát triển thị trường khách quốc tế, trong thời gian tới cần tập trung quảng bá, xúc tiến đầu tư thu hút thị trường hướng vào thị trường khách mục tiêu là dòng khách phương Tây đến Phú Yên.
Nhìn chung, qua đánh giá đặc điểm thị trường khách cùng với công tác phát triển sản phẩm DLBĐ thời gian qua cho thấy trên địa bàn Phú Yên việc xây dựng SPDL chưa xuất phát từ việc nghiên cứu, đánh giá xác định đúng thị trường mục tiêu và nhu cầu của thị trường. Việc xây dựng các dịch vụ, khu DL nghỉ dưỡng biển trên địa bàn còn ồ ạt, thiết kế mang tính đại chúng, thiếu các dịch vụ mà thị trường cần như: thể thao trên bãi biển, DL sinh thái cộng đồng, thiếu các sản phẩm bổ sung cho du khách nước ngoài. Các sản phẩm hiện tại chỉ dựa vào các tài nguyên biển sẵn có.
2.3.1.2. Doanh thu du lịch
Bảng 2.4. Doanh thu du lịch giai đoạn 2009 - 2019
Doanh thu (tỷ đồng) | Tỉ lệ tăng (%) | |
2009 | 253.800 | |
2010 | 249.500 | -1,7 |
2011 | 450.000 | 80,4 |
2012 | 500.000 | 11,1 |
2013 | 540.000 | 8 |
2014 | 675.060 | 25 |
2015 | 850.000 | 25,9 |
2016 | 997.500 | 17,4 |
2017 | 1.245.000 | 24,8 |
2018 | 1.556.000 | 25 |
2019 | 1.940.000 | 25 |
(Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Yên, 2019)
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, doanh thu du lịch Phú Yên có nhiều biến động. Doanh thu du lịch có thời kỳ tăng trưởng nhanh nhưng cũng có thời kỳ tăng trưởng chậm.Từ năm 2009 trở đi, Phú Yên đăng cai tổ chức nhiều chương trình văn hóa - văn nghệ quốc gia đặc sắc như: Sao mai điểm hẹn, Duyên dáng Việt Nam... bắt đầu thu hút sự quan tâm của du khách.
Năm 2011 là năm thành công rực rỡ của ngành du lịch tỉnh Phú Yên với doanh thu du lịch vượt trội nhờ hoạt động quảng bá và thu hút du khách tham gia năm du lịch quốc gia Phú Yên - Nam Trung Bộ “Thiên đường du lịch biển - đảo”.
Từ năm 2014 cho đến nay, doanh thu du lịch tương đối ổn định và duy trì mức tăng bình quân 25%/năm. Đến năm 2019 đã đạt mức trên 1,9 tỷ đồng. Doanh thu du lịch của tỉnh Phú Yên có sự chuyển biến tích cực qua từng giai đoạn. Điều này liên quan trực tiếp đến số lượt du khách, thời gian lưu trú và mức chi tiêu của du khách tại điểm đến. Nhìn chung qua các năm thì doanh thu từ DL của Phú Yên khá khiêm tốn so với các tỉnh khác trong vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, nhưng cũng đã đánh dấu một chặng đường PTDL Phú Yên trong đó có sự đóng góp doanh thu tại điểm các điểm DLBĐ.
Năm 2015, sau khi bộ phim “Hoa vàng cỏ xanh” được trình chiếu, du khách ồ ạt đổ về địa phương, tập trung nhất ở các điểm du lịch biển - đảo như: Gành Đá Đĩa
- Gành Đèn, Mũi Đại Lãnh - Bãi Môn, Bãi biển Tuy Hòa; Bãi Xép - Gành Ông; Đảo Nhất Tự Sơn và các điểm du lịch liên kết: Đồi Thơm; Tháp Nhạn; Nhà thờ Mằng Lăng; Chùa Đá Trắng và Chùa Thanh Lương...Trước đây, tỉnh Phú Yên không thu phí tham quan ở bất kỳ điểm du lịch nào nhưng từ ngày 01/01/2016, tỉnh bắt đầu bán vé tham quan tại các điểm du lịch biển - đảo đó là Gành Đá Đĩa - Gành Đèn, mũi Đại Lãnh - Bãi Môn, với giá vé chỉ có 10.000 đồng/khách; từ ngày 01/01/2017, tăng giá vé lên 20.000 đồng/khách (quốc tế, nội địa).
Ngoài ra, Phú Yên đã giao quyền quản lý và khai thác bán vé những điểm DL: Bãi Xép - Gành Ông, Đảo Nhất Tự Sơn, Hòn Yến - Gành Yến, Núi Đá Bia, Đồi Thơm, ... cho các doanh nghiệp tư nhân sẽ tự tạo doanh thu qua việc khai thác các hoạt động ăn uống, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí hay thu phí bán vé tham quan: Bãi Xép - Gành Ông: 20.000 đồng/khách; Đảo Nhất Tự Sơn: 40.000 đồng/khách.
Mặc dù doanh thu từ hoạt động DLBĐ chưa cao do giá vé tham quan rẻ nhưng qua đây cho thấy Phú Yên đã thực sự có sự quan tâm đầu tư vào các điểm DLBĐ thể hiện vai trò quan trọng của du lịch biển - đảo trong tổng thể ngành du lịch tỉnh. Vì thế, trong phát triển ngành du lịch Phú Yên, du lịch biển - đảo cần được quan tâm chú trọng phát triển hơn nhằm tạo ra doanh thu cao, đóng góp vào tổng doanh thu du lịch và tổng thu nhập kinh tế của Phú Yên.
2.3.1.3. Lao động trong ngành du lịch
Hiện nay, lực lượng lao động toàn tỉnh là: 554.138 người, chiếm 63,5% so tổng dân số; trong đó nữ là 258.045 người. Lực lượng lao động khu vực thành thị là
146.056 người và khu vực nông thôn là 408.082 người. Lao động đã qua đào tạo có chứng chỉ sơ cấp nghề trở lên khoảng 19% trong tổng số người có việc làm. Số người từ 15 tuổi trở lên có việc làm là 547.684 người, chiếm 62,7% trên tổng số dân. Trong đó, lao động đang làm việc trong ngành dịch vụ là 192.438 người, trình độ đại học, cao đẳng chiếm 9,47 %, trung cấp chuyên nghiệp chiếm 17,1%, sơ cấp chiếm 25,94% và số lao động được đào tạo tại chỗ và học các lớp nghiệp vụ ngắn hạn chiếm 47,49%. (Cục thống kê tỉnh Phú Yên, 2019).
Công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực du lịch địa phương được chú trọng. Đây được xem là nhân tố quan trọng, quyết định cho định hướng phát triển du lịch bền vững. Hàng năm, tỉnh đã thường xuyên liên kết, phối hợp với các trường trên địa bàn tỉnh mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ: lễ tân khách sạn, thuyết minh viên du lịch; bảo vệ môi trường du lịch tại các khu di tích thắng cảnh; nghiệp vụ buồng, báo cáo thống kê cho các đơn vị kinh doanh du lịch; tập huấn tuyên truyền pháp luật về du lịch, với khoảng 150 học viên. Phối hợp tổ chức các hội thi: Lễ tân khách sạn, thuyết minh viên di tích, văn hóa ẩm thực để không ngừng nâng cao năng lực và chất lượng phục vụ khách du lịch. Tuy nhiên, theo kết quả phỏng vấn các chuyên gia, các chuyên gia đã có những nhận định chung như sau: Đội ngũ nhân lực phục vụ du lịch đã được quan tâm chuẩn hóa dần nhưng thực sự vẫn chưa chuyên nghiệp, đặc biệt đội ngũ hướng dẫn viên và đội ngũ nhân viên phục vụ ăn uống trong các nhà hàng cần phải được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ.
Mặc dù có sự gia tăng đáng kể về đội ngũ lao động ngành trong những năm gần đây, đội ngũ lao động DL Phú Yên vẫn còn thiếu và yếu nếu so sánh với các tỉnh thành trong khu vực: Tp. Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hòa, ... Nhìn chung, lực lượng lao động có chuyên môn thấp và chưa qua đào tạo còn chiếm số lượng lớn, trình độ ngoại ngữ còn rất thấp. Nếu nghiên cứu về nhu cầu lao động để đáp ứng yêu cầu PTDL thì lao động trong ngành DL Phú Yên hiện đang thiếu rất lớn về chất lượng.
Không ngoài tình trạng chung về nguồn nhân lực du lịch của tỉnh, nguồn nhân lực phục vụ du lịch biển - đảo cũng còn thiếu và yếu. thiếu hẳn đội ngũ hướng dẫn
viên, thuyết minh viên được đào tạo bài bản, am hiểu về biển - đảo tỉnh nhà. Bên cạnh đó, lực lượng phục vụ chuyên cho các loại hình du lịch biển - đảo đặc thù như lặn ngắm san hô, thể thao biển - đảo hầu như là chưa có (chủ yếu là ngư dân địa phương tham gia và hướng dẫn viên hỗ trợ), chưa có các chuyên viên giỏi trong nghiệp vụ marketing và xây dựng chiến lược phát triển doanh nghiệp, phát triển sản phẩm du lịch, nghiệp vụ vui chơi, giải trí, … Như vậy, nhân lực phục vụ cho du lịch biển - đảo chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển các loại hình DLBĐ của tỉnh.
2.3.1.4. Cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch
a. Cơ sở lưu trú:
Cùng với xu hướng chung của cả nước hiện nay, do lượng khách nội địa và quốc tế có nhu cầu du lịch biển - đảo nhiều hơn nên các khách sạn, nhà nghỉ được xây dựng thêm để đáp ứng kịp thời nhu cầu của du khách. Phú Yên không ngừng nâng cấp, xây mới các khách sạn, nhà nghỉ phục vụ khách du lịch. Nhìn chung, số lượng khách sạn, nhà nghỉ phục vụ du khách tăng nhanh cả về số lượng, quy mô và phương thức hoạt động.
Qua bảng số liệu bảng 2.5, ta thấy: trong giai đoạn 2009 - 2019, hệ thống cơ sở lưu trú phục vụ khách DL nói chung và du lịch biển - đảo nói riêng đã phát triển với tốc độ khá nhanh. Năm 2009, có 24 cơ sở lưu trú đi vào hoạt động với 356 buồng và 1.051 giường, đến năm 2014 có trên 100 cơ sở lưu trú với 2.178 buồng và 4.000 giường, trong đó có 600 buồng đạt tiêu chuẩn 1- 2 sao và 500 buồng đạt tiêu chuẩn 3- 5 sao, có 01 khách sạn 5 sao, 02 khách sạn 4 sao, 06 khách sạn 2 sao. Năm 2018 toàn tỉnh đã có 150 cơ sở lưu trú với 3.500 buồng và 6.800 giường, trong đó có 35 khách sạn từ 1- 2 sao và 9 khách sạn từ 3- 5 sao. Công suất sử dụng phòng trung bình đạt ở mức từ 50-56%. Đến cuối năm 2019, Phú Yên đã đón trên 1,8 triệu lượt khách quốc tế và nội địa nâng công suất sử dụng buồng đạt 63%; doanh thu du lịch đạt 1.900 tỷ đồng. Có 161 cơ sở kinh doanh lưu trú du lịch, tổng số buồng lưu trú dự kiến 3.410 buồng, trong đó có trên 700 buồng đạt tiêu chuẩn 3-5 sao, tuy nhiên hoạt động kinh doanh lưu trú vẫn còn thấp so với lượng du khách đến tham quan du lịch Phú Yên. Điều này có thể lý giải một phần là do tính thời vụ cao của DLBĐ và phần lớn là do nơi đây thiếu các dịch vụ vui chơi giải trí bổ sung nên ít giữ chân du khách lưu lại lâu
đã ảnh hưởng đến ngày lưu trú và công suất sử dụng phòng dù chất lượng cơ sở lưu trú ngày càng được đầu tư nâng lên.
Bảng 2.5. Cơ sở lưu trú phục vụ DL Phú Yên giai đoạn 2009 - 2019
Tổng số cơ sở lưu trú | Tổng số buồng | Tổng số giường | Công suất buồng trung bình (%) | |
2009 | 67 | 1.484 | 2.380 | 55,0 |
2010 | 100 | 2.175 | 4.000 | 55,7 |
2011 | 110 | 2.351 | 4.707 | 58,5 |
2012 | 115 | 2.410 | 4.789 | 52,0 |
2013 | 120 | 2.508 | 5.009 | 55,0 |
2014 | 123 | 2.532 | 5.047 | 61,0 |
2015 | 125 | 2.551 | 5.584 | 63,5 |
2016 | 135 | 2.770 | 5.822 | 55,0 |
2017 | 140 | 2.875 | 5.930 | 55,7 |
2018 | 150 | 3.200 | 7.180 | 58,5 |
2019 | 161 | 3.410 | 7.860 | 63 |
(Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Yên, 2019)
b. Cơ sở ăn uống, nhà hàng:
Các cơ sở ăn uống có thể nằm trong các cơ sở lưu trú nhằm phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi, hội họp, giao lưu của khách đang lưu trú tại các khách sạn hoặc có thể nằm độc lập bên ngoài các cơ sở lưu trú, ở các điểm tham quan DL nhằm phục vụ khách DL. Các cơ sở này đang từng bước được quan tâm đầu tư phát triển. Hiện tại, Phú Yên có hơn 55 phòng ăn ở các cơ sở lưu trú với khoảng 24.500 chỗ ngồi, phục vụ các món ăn khác nhau đáp ứng nhu cầu của khách khi tham gia DL tại Phú Yên. Các cơ sở ăn uống bên ngoài khách sạn phân bố chủ yếu tại Tp. Tuy Hòa, Tx. Sông Cầu và
H. Tuy An với khoảng 84 cơ sở đáp ứng khoảng 11.000 chỗ ngồi. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn nhiều cơ sở kinh doanh ăn uống nhỏ, chuyên cung cấp và phục vụ các món ăn hải sản có thể phục vụ cho khách lẻ và các đoàn khách ít người với mức giá cả bình dân từ 60.000đ - 200.000đ/ suất ăn với các món ăn đặc sản, chất lượng các món ăn đáp ứng được nhu cầu cơ bản của người dân. Tuy nhiên, cần chú trọng nhiều hơn đến vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm để phục vụ cho khách DL tốt hơn. Mặt
bằng hẹp nên các cơ sở kinh doanh ăn uống này thường thiếu không gian cây xanh, chỗ để xe, nên ít đón được các đoàn khách lớn.
c. Cơ sở vui chơi giải trí và thể thao:
Trên địa bàn tỉnh Phú Yên hiện đang còn thiếu hụt rất nhiều về cơ sở, dịch vụ vui chơi giải trí và thể thao dành cho khách du lịch. Không chỉ thiếu hụt về số lượng, các cơ sở vui chơi giải trí mà còn rất nghèo nàn, đơn điệu chưa có sự đầu thích đáng. Thời gian qua, Tỉnh đã đầu tư nâng cấp và tu bổ một số công trình thiết yếu tại các điểm tham quan như: khu di tích gành Đá Đĩa, khu di tích Mũi Đại Lãnh, … tuy đã có sự quan tâm đầu tư nhưng việc phát triển các hoạt động thể thao và vui chơi giải trí vùng biển - đảo Phú Yên vẫn còn đơn điệu hầu như mới chỉ dừng ở các hoạt động karaoke, massage, bơi lội và đánh tennis.
Việc đầu tư khai thác các điểm du lịch cần đi đôi với việc bảo tồn để khai thác được lâu dài, hiệu quả. Nhiều khu du lịch đã đi vào hoạt động như Sala, Rosa, ... nhưng khu vực bãi biển vẫn còn hoang sơ, chưa xứng với tiềm năng DL của tỉnh.
Đến nay, các điểm vui chơi, giải trí, DL sinh thái hình thành trên vùng biển - đảo mới chỉ có Trung tâm giải trí và sinh thái Thuận Thảo, KDL sinh thái Đá Bia, KDL sinh thái Sao Việt, KDL sinh thái Bãi Bàu, KDL Nhất Tự Sơn, ... đã thu hút hàng trăm nghìn lượt khách đến tham quan vui chơi giải trí, bước đầu tạo thêm sản phẩm du lịch, đáp ứng nhu cầu của du khách. Tuy nhiên, hệ thống cơ sở vui chơi giải trí và dịch vụ bổ sung vẫn là một trong những điểm yếu trong việc phát triển DLBĐ Phú Yên, cần thiết phải được khắc phục. Bởi chính các cơ sở vui chơi giải trí và thể thao lại có tác dụng bổ trợ cho hoạt động du lịch, kéo dài thời gian lưu trú và khuyến khích sự chi tiêu của du khách.
d. Phương tiện vận chuyển khách:
Hiện nay trên địa bàn tỉnh Phú Yên có khoảng trên 20 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho thuê xe du lịch. Tuy nhiên đa phần các doanh nghiệp cho thuê xe có quy mô vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp cho thuê xe tiêu biểu của tỉnh như Thuận Thảo, Cúc Tư, Phương Hùng, Anh Tuấn, Lê Đang, v.v... mỗi doanh nghiệp có số xe cho thuê không quá 20 xe. Chính vì vậy vào mùa cao điểm du lịch phương tiện vận chuyển du lịch của tỉnh rất khan hiếm, giá thành dịch vụ cao hơn từ 10 đến 20% so với các tỉnh thành khác. Bên cạnh dịch vụ cho thuê xe ô tô tại Phú Yên còn có các dịch vụ