mobile banking...), dịch vụ phái sinh (Futures contract, Option, Swap,...), trong khi đó, như đã đề cập ở phần trên, pháp luật về dịch vụ ngân hàng đã bộc lộ nhiều “khoảng trống”, như thiếu các văn bản pháp luật về các loại hình dịch vụ mới, phương thức cung cấp dịch vụ mới. Thực trạng này không chỉ cản trở hoạt động kình doanh của TCTD (vì khi muốn cung cấp các dịch vụ này, các TCTD phải xin phép NHNN thí điểm thực hiện), mà còn ảnh hưởng tới hoạt động quản lý của NHNN (NHNN không có đủ cơ sở pháp luật để thực hiện chức năng thanh tra, giám sát). Trong chừng mực nhất định, việc thiếu các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên cũng ảnh hưởng tới việc thực hiện nghĩa vụ của Việt Nam về minh bạch hoá chính sách trong các Hiệp định thương mại song phương và đa phương (như BTA, AFAS, WTO).
Thứ ba, pháp luật về dịch vụ ngân hàng thiếu các các quy định điều chỉnh một số phương thức cung cấp dịch vụ ngân hàng như qua biên giới, sử dụng dịch vụ ở nước ngoài, hiện diện thể nhân. Các quy định hiện hành của pháp luật về dịch vụ ngân hàng hầu hết chỉ tập trung điều chỉnh phương thức cung cấp dịch vụ ngân hàng thông qua hiện diện thương mại, mà chưa có các quy định điều chỉnh việc cung cấp dịch vụ ngân hàng thông qua phương thức khác. Trong khi đó, ngày nay với sự phát triển của công nghệ thông tin, việc cung cấp dịch vụ nói chung và dịch vụ ngân hàng nói riêng qua mạng Internet đã khá phổ biến. Thông qua mạng Internet, các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài hoàn toàn có thể cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho các khách hàng tại Việt Nam và ngược lại, các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng Việt Nam cũng có thể cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho các khách hàng tại nước ngoài mà không cần thiết lập hiện diện thương mại. Do vậy, khi không có các quy định điều chỉnh các phương thức cung cấp dịch vụ mới này, NHNN khó có thể thực hiên tốt vai trò giám sát, kiểm tra để với hoạt động cung cấp dịch vụ theo các phương thức mới này của các TCTD.
Thứ tư, Luật các TCTD chưa quy định rõ thẩm quyền quản lý Nhà nước về dịch vụ ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước. Thực tiễn thực hiện Luật các TCTD và các văn bản hướng dẫn Luật trong thời gian qua cho thấy phạm vi điều chỉnh của
Luật chưa phù hợp với thực tiễn quản lý Nhà nước về hoạt động ngân hàng. Theo quy định của Luật các TCTD, NHNN là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho TCTD và cấp giấy phép hoạt động ngân hàng cho tổ chức khác (không phải là TCTD). Tuy nhiên, việc cấp giấy phép hoạt động ngân hàng cho tổ chức khác (không phải là TCTD) chưa được thực hiện trên thực tế vì các lý do sau đây: (i) Luật các TCTD không phân biệt rõ giữa hoạt động ngân hàng (và hoạt động bao gồm cả nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi này để cho vay, làm dịch vụ thanh toán) và các dịch vụ ngân hàng cụ thể (mà ngân hàng, các tổ chức khác không phải là TCTD được phép thực hiện); (ii) Chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện Luật về việc cấp phép hoạt động ngân hàng cho các tổ chức khác (iii) Luật không có quy định cụ thể về các loại hình dịch vụ ngân hàng mà các tổ chức khác có thể được phép hoạt động; (iv) Luật chưa có quy định về giám sát an toàn đối với các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng. Thực trạng nêu trên đã làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước của NHNN. Trên thực tế, có nhiều tổ chức khác có hoạt động ngân hàng (thậm chí hoạt động ngân hàng là hoạt động chính) nhưng không do NHNN cấp phép và quản lý, thanh tra, giám sát như Tiết kiệm bưu điện, Quỹ bảo lãnh doanh nghiệp vừa và nhỏ, . . .
Thứ năm, pháp luật về dịch vụ ngân hàng chưa quy đinh rõ phạm vi hoạt động của từng loại hình ngân hàng. Theo quy định của pháp luật ngân hàng hiện hành, ngân hàng bao gồm các loại hình như ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác. Tuy nhiên, các quy định về hoạt động của các loại hình ngân hàng này lại không có sự phân biệt giữa từng loại hình ngân hàng. Hay nói cách khác, các loại hình ngân hàng này được cung cấp cùng loại dịch vụ ngân hàng. Quy định này không phù hợp với thông lệ quốc tế và làm cho việc phân biệt các loại hình ngân hàng không có ý nghĩa, không thúc đẩy sự phát triển đa dạng của các loại hình TCTD và loại hình dịch vụ ngân hàng chuyên sâu của mỗi loại hình ngân hàng. Bất cập này cũng làm cho thị trường ngân hàng ở nước ta không có các loại hình ngân hàng khác (không phải là ngân
hàng thương mại) như ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng hợp tác đúng nghĩa.
Các bất cập nêu trên của pháp luật về dịch vụ ngân hàng, nếu không được khắc phục kịp thời chắc chắn sẽ cản trở sự phát triển dịch vụ ngân hàng và sẽ góp phần làm giảm khả năng cạnh tranh của các TCTD Việt Nam. Do vậy, việc hoàn thiện pháp luật về dịch vụ ngân hàng, khắc phục các bất cập nêu trên để hỗ trợ tích cực cho việc phát triển dịch vụ ngân hàng của các TCTD là yêu cầu cấp thiết.
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển dịch vụ ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - 11
- Phát triển dịch vụ ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - 12
- Phát triển dịch vụ ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - 13
- Phát triển dịch vụ ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - 15
- Phát triển dịch vụ ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - 16
- Phát triển dịch vụ ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - 17
Xem toàn bộ 177 trang tài liệu này.
Các qui định pháp luật về dịch vụ ngân hàng áp dụng cho các DNVVN được nêu chi tiết ở phần Phụ lục đi kèm theo. Tại Hội nghị cuối năm 2006 đề cập tới các qui định pháp lý cũng như các cơ chế-chính sách trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng cho các DNVVN, NHNN đã đưa ra một số đánh giá tổng quan dưới đây:
Cơ chế huy động vốn:
Hiện nay NHNN đã chỉ đạo các TCTD đa dạng hoá các hình thức huy động vốn nhằm thu hút tới mức cao nhất các nguồn vốn trong xã hội, nhất là nguồn vốn trung và dài hạn để mở rộng cho vay đáp ứng các nhu cầu vốn ngày càng tăng của nền kinh tế. Nhờ đó, nguồn vốn huy động của hệ thống ngân hàng đã tăng trưởng với tốc độ khá cao, bình quân khoảng 25%/năm.
NHNN tích cực phát triển mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế và ngân hàng các nước nhằm tranh thủ nguồn vốn từ bên ngoài tài trợ cho các DNVVN với tổng giá trị các dự án hơn 30 triệu USD như Dự án Tài chính doanh nghiệp nông thôn do ADB, WB tài trợ, Dự án tài trợ DNVVN vốn vay ODA Nhật Bản thông qua JBIC, Quỹ phát triển DNVVN Việt Nam-EU (SMEDF).
Cơ chế cấp tín dụng:
Cơ chế cho vay:
Các NHTM (và các TCTD) được tự chủ xem xét cho vay tất cả các nhu cầu vốn để đầu tư, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mà pháp luật không cấm, thoả thuận với các doanh nghiệp trong việc cho vay vốn có bảo đảm bằng tài sản hoặc không bảo đảm bằng tài sản. Thời hạn cho vay, lãi suất cho vay, mức vốn cho vay do TCTD và doanh nghiệp thoả thuận phù hợp với dự án đầu tư, phương án sản
xuất kinh doanh, khả năng trả nợ của doanh nghiệp và khả năng tài chính của TCTD.
Phương thức cho vay phù hợp với điều kiện sản xuất, kinh doanh và nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp như cho vay theo hạn mức tín dụng đối với những doanh nghiệp có quan hệ vay vốn thường xuyên, cho vay vốn ngắn hạn, trung và dài hạn đối với dự án đầu tư để doanh nghiệp chủ động được vốn trong sản xuất, kinh doanh, đối với các dự án lớn, vượt quá khả năng của một TCTD thì các TCTD sẽ phối hợp để cho vay đồng tài trợ.
TCTD được quyết định miễn, giảm lãi vốn vay phải trả đối với khách hàng bị tổn thất về tài sản dẫn đến khó khăn về tài chính. Mức độ miễn, giảm lãi vốn vay phù hợp với khả năng tài chính của TCTD
Các cơ chế cấp tín dụng khác:
Cùng với hình thức cho vay truyền thống, NHNN đã ban hành cơ chế về các hình thức cấp tín dụng khác như bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu ... nhằm tạo hành lang pháp lý cho các TCTD mở rộng các kênh cấp tín dụng cho các DNVVN, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng thuận lợi và đa dạng hơn, phù hợp với đặc thù hoạt động.
Về nghiệp vụ bảo lãnh: các TCTD được thực hiện các loại bảo lãnh đối với các doanh nghiệp là bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm, bảo lãnh tài khoản thanh toán và các loại bảo lãnh khác. Hình thức bảo lãnh bao gồm hợp đồng bảo lãnh, thư bảo lãnh và các hình thức khác pháp luật không cấm và phù hợp với thông lệ quốc tế, phí bảo lãnh do hai bên thoả thuận. Mức bảo lãnh của TCTD đối với một khách hàng không vượt quá 15 % vốn tự có của TCTD đó; đối với nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp có thể kết hợp đồng thời cả cho vay và bảo lãnh.
Về nghiệp vụ cho thuê tài chính: các công ty cho thuê tài chính thực hiện tín dụng trung và dài hạn bằng Việt Nam đồng và ngoại tệ thông qua việc cho doanh nghiệp thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động
sản khác theo yêu cầu của doanh nghiệp. Khi kết thúc thời hạn thuê doanh nghiệp được quyền mua lại hoặc tiếp tục thuê lại tài sản thuê. Do tài sản thuê thuộc quyền sở hữu của công ty cho thuê tài chính, doanh nghiệp không phải thực hiện các biện pháp thế chấp, cầm cố tài sản khi thuê, cho nên hình thức cấp tín dụng này phù hợp với điều kiện tài chính của các DNVVN không có đủ tài sản thế chấp, cầm cố.
Về cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu: đối với các doanh nghiệp xuất khẩu khi cần vốn để tiếp tục sản xuất, kinh doanh, TCTD xem xét chiết khẩu (mua lại) bộ chứng từ hàng xuất của doanh nghiệp đã được thực hiện, doanh nghiệp nhận được Việt Nam đồng hoặc ngoại tệ.
Về nghiệp vụ phái sinh: hiện nay, NHNN có quy định khung pháp lý cho các TCTD thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất với doanh nghiệp để giúp TCTD và doanh nghiệp phòng ngừa rủi ro lãi suất, cố định chi phí sản xuất nhằm ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, NHNN cho phép một số NHTM thực hiện thí điểm đối với từng nghiệp vụ phái sinh cụ thể như giao dịch kỳ hạn, giao dịch quyền chọn, hoán đổi lãi suất giữa hai đồng tiền.
Cơ chế bảo đảm tiền vay:
TCTD và doanh nghiệp được tự thoả thuận và lựa chọn việc bảo đảm tiền vay bằng các biện pháp phù hợp (cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba hoặc bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay). Doanh nghiệp có thể được TCTD lựa chọn cho vay không phải bảo đảm bằng tài sản, hoặc cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay với điều kiện thuận lợi hơn.
Đối với một số đối tượng vay vốn, TCTD thực hiện cho vay không phải bảo đảm bằng tài sản: đến 30 triệu đồng đối với chủ trang trại; đến 50 triệu đồng đối với doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh giống thuỷ sản; đến 100 triệu đồng đối với hợp tác xã làm dịch vụ cung ứng vật tư, cây, con giống để sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp; đến 500 triệu đồng đối với hợp tác xã sản xuất hàng xuất khẩu, làm nghề truyền thống.
Cơ chế lãi suất: Lãi suất cho vay do TCTD và khách hàng thoả thuận trên cơ sở cung - cầu về vốn thị trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng. Đối với các đối tượng thuộc vùng có điều khó khăn, các ngân hàng thương mại nhà nước cho vay với lãi suất ưu đãi thấp hơn khoảng 15 - 30% so với lãi suất cho vay thông thường. Cơ chế hỗ trợ:
Bên cạnh việc đổi mới cơ chế, chính sách về cấp tín dụng, NHNN đã chỉ đạo các TCTD thực hiện các giải pháp tạo thuận lợi về thủ tục cho vay, tăng cường các dịch vụ thanh toán, tư vấn cho các doanh nghiệp vay vốn nhằm hỗ trợ cho DNVVN tiếp cận vốn tín dụng và các dịch vụ khác của ngân hàng, bao gồm việc tiếp tục cải tiến quy trình, thủ tục cho vay như ban hành sổ tay tín dụng, áp dụng hệ thống cho điểm tín dụng đối với doanh nghiệp nhằm chuẩn hoá cách thức đánh giá rủi ro khách hàng, ban hành quy trình tác nghiệp tín dụng theo tiêu chuẩn ISO. Niêm yết và thông báo cho khách hàng về thủ tục hồ sơ và thời gian giải quyết cho vay của ngân hàng. Tổ chức tiếp xúc với các DNVVN để nắm bắt nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và tháo gỡ các khó khăn vướng mắc trong quan hệ tín dụng với doanh nghiệp nhằm mở rộng đầu tư tín dụng được an toàn, hiệu quả. Tích cực mở rộng mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch để thu hút vốn, mở rộng cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán cho doanh nghiệp. Hướng dẫn các TCTD tham gia góp vốn thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng DNVVN.
2.4. VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC HIỆP HỘI, NGÀNH NGHỀ VÀ CÁC TỔ CHỨC LIÊN QUAN KHÁC
Như chúng ta đã phân tích ở trên, trong tổng thế các quan hệ tương tác giữa các yếu tố trong phát triển dịch vụ ngân hàng phục vụ phát triển DNVVN ta có thể thấy các tổ chức hiệp hội, ngành nghề đã và sẽ luôn đóng vai trò hết sức quan trọng. Điều này không chỉ đúng với tình hình tại Việt nam nói riêng mà còn đúng với các quốc gia khác trên thế giới nói chung, kể cả các nước phát triển.
Một điều dễ nhận thấy là các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng có cách tiếp cận với các DNVVN khác với cách tiếp cận với các DN lớn. Cũng chính vì đặc thù của các DNVVN nên luôn xuất hiện nhu cầu “chỗ dựa” hay “tạo dựng lòng tin”
trong quan hệ với các nhà cung cấp dịch vụ. Ở đây chúng ta thấy một thực trạng là các DNVVN được thành lập và rút khỏi thị trường hay chấm dứt hoạt động là chuyện khá bình thường nên bản thân các nhà cung cấp dịch vụ luôn cần một tổ chức đại diện hay tập hợp các DNVVN (theo địa bàn, theo ngành nghề…) để nắm thêm thông tin về các khách hàng là DNVVN. Cụ thể ta có thể thấy là ở nơi nào vai trò của các tổ chức hiệp hội ngành nghề được đẩy mạnh và phát huy thì ở đó hoạt động tín dụng được triển khai tốt hơn.
Một số nội dung hỗ trợ cụ thể của các tổ chức hiệp hội và các tổ chức ngành nghề liên quan cho các DNVVN bao gồm:
- Hỗ trợ các DNVVN về thông tin, giúp họ tiếp cận được các thông tin về chính sách, luật pháp, các thông tin kinh doanh, thông tin về thị trường…
- Đào tạo cho các DNVVN về các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình, bao gồm các vấn đề về quản lý sản xuất, nguồn nhân lực, kế toán-tài chính, lập kế hoạch kinh doanh …
- Giới thiệu đối tác thương mại, đầu tư và hỗ trợ các DNVVN tiếp cận các nguồn tài chính.
- Kiến nghị với Nhà nước để tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất-kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài nước.
Hiện nay một số hiệp hội ngành nghề và Hiệp hội DNVVN Việt nam đã ký kết thoả thuận hợp tác với một số ngân hàng và tổ chức tín dụng trong đó có đề cập tới việc hỗ trợ các doanh nghiệp hội viên trong việc tiếp cận và sử dụng hiệu quả các dịch vụ ngân hàng.
2.5. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆC CUNG ỨNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG TỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ KHI VIỆT NAM TRỞ THÀNH THÀNH VIÊN CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Phần này chúng ta sẽ đề cập vấn đề tiếp cận dịch vụ ngân hàng của các DNVVN trong bối cảnh Việt nam trở thành thành viên đầy đủ của WTO. Trong bối cảnh đó, có các vấn đề cơ bản sau đây đặt ra cho các bên liên quan:
Việt nam sẽ phải xây dựng hệ thống luật pháp và điều chỉnh các qui định pháp lý hiện hành theo tinh thần của WTO
Các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng Việt nam sẽ gặp phải cạnh tranh gay gắt hơn ngay tại thị trường trong nước bởi sự xuất hiện của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Các ngân hàng nước ngoài có mặt tại Việt nam cũng sẽ mở rộng hoạt động và tăng cường các dịch vụ cung cấp
Bản thân các doanh nghiệp Việt nam nói chung và DNVVN nói riêng sẽ phải nhanh chóng nâng cao năng lực của mình để cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường Việt nam. Bản thân việc nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua quản trị doanh nghiệp tốt và phát triển thị trường, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN Việt nam tiếp cận tốt hơn các dịch vụ của các nhà cung cấp trong và ngoài nước.
Ngày 4/1/1995, WTO tiếp nhận đơn xin gia nhập WTO của Việt Nam để xem xét. Cuối năm 2001, đầu 2002 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chính thức gửi bản chào đầu tiên về dịch vụ ngân hàng, qua đó chính thức bước vào giai đoạn đàm phán về mở cửa thị trường đối với ngành ngân hàng. Với các nguyên tắc của WTO về thương mại dịch vụ, bản chào về dịch vụ ngân hàng lấy Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA) làm cơ sở, đưa ra các cam kết theo quy định của WTO để đàm phán. Việc trở thành thành viên của WTO tuỳ thuộc vào quá trình đàm phán với các thành viên còn lại, vào mức độ chấp nhận "mở cửa" của Việt Nam.
Hiện nay, theo yêu cầu của vòng Doha, điều kiện gia nhập WTO ngày càng gay gắt, với nhiều đòi hỏi khó khăn từ các nước phát triển. Một số nước khi gia nhập WTO phải ký kết với một số nước khác để đáp ứng một số yêu cầu riêng biệt, gọi là WTO cộng (WTO+) đòi hỏi Việt Nam phải chấp nhận và nhượng bộ để vào WTO. Để đạt được sự thoả thuận, các bên phải cùng nhau đàm phán. Các vòng đàm phán là những cuộc đấu trí mà các nước tham gia bằng mọi giá phải đem lợi ích về