và rủi ro của dự án vay, không phân biệt đối tượng khách hàng. Phí các loại dịch vụ ngân hàng khác cũng được xác định trên cơ sở cung-cầu. Trong điều kiện thị trường dịch vụ ngân hàng đang diễn ra cạnh tranh gay gắt, phí dịch vụ ngân hàng có xu hướng giảm. Xu hướng trên của giá cả dịch vụ ngân hàng đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các DNVVN trong khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận và sử dụng các loại hình dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ tín dụng. Tuy nhiên, xung quanh giá cả dịch vụ ngân hàng còn một số bất cập ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng tiếp cận của các doanh nghiệp này, cụ thể:
- Từ năm 2004 đến nay, lãi suất huy động nội tệ và ngoại tệ liên tục tăng cao, kéo theo lãi suất cho vay tăng và hiện ở mức cao. Đối với các DNVVN trong khu vực kinh tế tư nhân, tiềm lực tài chính hạn chế nên việc tiếp cận với dịch vụ tín dụng của các NHTM sẽ gặp nhiều khó khăn hơn;
- Việc xác định lãi suất cho vay theo nguyên tắc thoả thuận, trong điều kiện vẫn còn tồn tại “tâm lý” cho rằng cho vay các doanh nghiệp tư nhân có rủi ro cao, kéo theo việc xác định lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp này cao hơn so với các DNNN…
Bên cạnh đó, đối với các nhóm dịch vụ không mang tính “tín dụng” (như dịch vụ thanh toán) thì vấn đề mấu chốt là việc các ngân hàng phải nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua khả năng cung cấp các dịch vụ (hoặc các gói dịch vụ) tiện ích với chi phí thấp. Điều này cũng giải thích xu hướng các ngân hàng đưa ra các gói dịch vụ thay vì các dịch vụ đơn lẻ cho các DNVVN để giúp mức giá dịch vụ trở nên cạnh tranh hơn. Phân tích trên cũng là cơ sở để lý giải việc các ngân hàng gắn kết các dịch vụ mang tính chất “tín dụng” cùng với các tiện ích, dịch vụ khác không mang đặc tính “tín dụng” thành các gói dịch vụ phù hợp với các DNVVN.
Yếu tố “cộng hưởng” cũng đóng vai trò quan trọng trong chiến lược sản phẩm nêu trên bởi lẽ việc cung cấp các dịch vụ “cả gói” giúp cho các ngân hàng có nhiều thông tin đa chiều về hoạt động của các DNVVN, qua đó tạo niềm tin và cơ
sở cho quyết định cấp tín dụng cho doanh nghiệp. Đây cũng là một xu hướng phổ biến trên thế giới.
Ví dụ cho xu hướng trên là việc Ngân hàng Quốc tế (VIB Bank) trong tháng 12/2006 cho ra mắt dịch vụ chìa khoá thuế xuất nhập khẩu dành cho các doanh nghiệp XNK. Với dịch vụ này doanh nghiệp sẽ được VIB Bank hỗ trợ về tài chính phục vụ cho việc thanh toán thuế XNK thông qua các dịch vụ: chuyển thuế tự động, bảo lãnh nộp thuế, cho vay nộp thuế và ứng trước tiền hoàn thuế. Trong trường hợp này doanh nghiệp có cơ hội sử dụng dịch vụ với mức phí và lãi suất ưu đãi cạnh tranh hơn so với việc chỉ sử dụng những dịch vụ riêng lẻ, hơn nữa còn đảm bảo tiết kiệm thời gian và chi phí, chủ động về vốn lưu động để thực hiện nghĩa vụ nộp thuế và kế hoạch kinh doanh.
Để ví dụ cụ thể cho nội dung phân tích ở trên, hiện nay khi tiếp cận tới các khoản tín dụng trung hạn, một doanh nghiệp có thể phải trả các khoản sau:
Lãi suất (khoảng 1%/tháng)
Phí quản lý tín dụng (khoảng 1%/năm)
Phí cấp tín dụng cho mỗi hồ sơ vay (0.055%, tối thiểu 300.000 VND)
Phí giải ngân bằng tiền mặt (đối với trường hợp giải ngân bằng tiền mặt) (0.055%)
2.1.7. Quản trị rủi ro xét từ góc độ của các ngân hàng và doanh nghiệp vừa và nhỏ
Quản trị rủi ro là một trong những yếu tố quan trọng được xem xét trong luận án này để góp phần đưa ra giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng hỗ trợ DNVVN ở Việt Nam.
Trong quan hệ giữa ngân hàng với DNVVN thì khi doanh nghiệp đưa ra một đề xuất vay vốn thì bản thân trong đề xuất này phải tính đến các yếu tố rủi ro. Rủi ro có thể mang yếu tố khách quan, bất khả kháng hay các rủi ro trên thương trường khác. Năng lực quản trị rủi ro của doanh nghiệp sẽ giúp họ tính toán hết được các yếu tố trên và thể hiện trong hồ sơ tín dụng của mình. Trên cơ sở đó, các ngân hàng sẽ xem xét để đưa ra mức lãi suất và phí tương ứng. Như vậy có thể thấy nếu các
ngân hàng không có năng lực quản trị rủi ro tốt thì bản thân các mức lãi suất và phí sẽ có xu hướng được tính cao hơn so với mức bình thường. Điều này là cản trở đối với các DNVVN vì khi đó các doanh nghiệp này phải tính toán lại các phương án kinh doanh để có thể duy trì mức lợi nhuận mong muốn.
Trong trường hợp các DNVVN không tính toán hết các rủi ro trong phương án đầu tư, kinh doanh của mình thì khi phương án kinh doanh này thất bại, hậu quả sẽ rơi vào cả hai phía-doanh nghiệp và ngân hàng.
Quản trị rủi ro tốt từ cả hai phía không chỉ nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của chính các ngân hàng và DNVVN mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN tiếp cận và sử dụng có hiệu quả các dịch vụ của ngân hàng. Quản trị rủi ro tốt cũng tạo điều kiện cho các DNVVN thu hút đầu tư và mở rộng kinh doanh.
2.1.8. Thực trạng hoạt động của các tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt nam
Hiện nay vẫn chưa có ngân hàng ngân hàng 100% vốn nước ngoài nào được thành lập tại Việt Nam. Hiện nay có 3 loại hình các tổ chức tín dụng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam gồm: chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh và tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài (gồm có công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn nước ngoài, công ty cho thuê tài chính liên doanh và công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài).
Theo những cam kết của Việt nam với WTO, từ 01/04/2007 các ngân hàng con của ngân hàng nước ngoài được phép thành lâp chi nhánh 100% vốn tại Việt nam. Mở một chi nhánh ngân hàng tại Việt nam hiện nay chỉ cần 15 triệu USD, còn lập một ngân hàng con tại Việt nam thì vốn điều lệ tối thiểu là 70 triệu USD. Hơn nữa ngân hàng nào muốn thành lập ngân hàng con tại Việt nam thì phải có tổng tài sản tối thiểu tương đương 10 tỷ USD. Đây là những hàng rào kỹ thuật mà Việt Nam qui định.
Xét về thị phần, nhóm các ngân hàng nước ngoài chiếm một thị phần khiêm tốn, chưa đến 10%, trong cả lĩnh vực tín dụng và cho vay. Nguyên nhân lý giải hiện
trạng này chính là những hạn chế nhất định về đối tượng khách hàng, số lượng và loại hình tiền tệ được phép huy động và mạng lưới hoạt động. Tuy vậy, các tổ chức tín dụng nước ngoài có một số lợi thế nhất định để cải thiện tình hình này. Các chi nhánh nước ngoài tại Việt Nam có thể nhờ vào năng lực tài chính dồi dào của ngân hàng mẹ mà không bị giới hạn như các ngân hàng Việt Nam. Ngoài ra, họ có kinh nghiệm phong phú về đánh giá dự án, xếp hạng rủi ro và quản lý nợ, từ đó tỷ lệ nợ quá hạn sẽ thấp.
Có thể cho rằng ngành ngân hàng là một trong những ngành mà sự cạnh tranh của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài hiện chưa mạnh. Thị phần của nhóm ngân hàng nước ngoài không tăng nhiều trong suốt giai đoạn 2000-2004.
Tuy nhiên, việc thị phần của nhóm ngân hàng nước ngoài thấp không phải do năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam mạnh mà bởi vì những hạn chế được đặt ra đối với các ngân hàng nước ngoài. Hơn thế nữa, trong bối cảnh năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam còn yếu và các ngân hàng thương mại nhà nước chủ yếu cho các doanh nghiệp nhà nước vay thì nguồn vốn từ các ngân hàng nước ngoài là hết sức cần thiết cho phát triển kinh tế. Vì lẽ đó, xét về lợi ích toàn cục cho nền kinh tế, thị phần của các ngân hàng nước ngoài chắc chắn sẽ tăng lên trong thời gian tới.
2.2. THỰC TRẠNG TIẾP CẬN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
Hiện nay chúng ta có thể đánh giá rằng các dịch vụ ngân hàng đã đến được với các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng. Các DNVVN với đại đa số là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cùng với đặc thù qui mô nhỏ và kéo theo đó là hàng loạt các đặc điểm về quản lý doanh nghiệp cũng đã tạo nên các đặc trưng trong việc tiếp cận các dịch vụ ngân hàng. Các yếu tố khác mang tính nội tại của các nhà cung cấp dịch vụ. Trước khi đi vào phân tích cụ thể các nội dung liên quan đến các dịch vụ ngân hàng cho các DNVVN, ta cần có cái nhìn chung về cơ cấu hoạt động của một số ngân hàng trong thời gian qua (năm 2004):
Bảng 2.5-Cơ cấu hoạt động của một số ngân hàng (2004)
Danh mục | NH Ngoại Thương | NH Công Thương | NH Đầu tư & PT | NH Nông Nghiệp | NHCP Kỹ Thương | NHCP Á Châu | |
1 | Tổng thu nhập | 100% | 100% | 100% | 100% | 100% | 100% |
2 | a. Thu lãi cho vay | 60.3 | 71.2 | 78.1 | 90.2 | 63.5 | 61.1 |
3 | b.Thu các dịch vụ NH | 39.7 | 28.8 | 21.9 | 9.8 | 26.5 | 38.9 |
4 | Trong đó | ||||||
5 | -Cấp tín dụng | 60.3 | 71.2 | 78.1 | 90.2 | 63.5 | 61.1 |
6 | -Nghiệp vụ phái sinh | 1.2 | 0.2 | 0.3 | 0.05 | 2.2 | 1.2 |
7 | -Kinh doanh ngoại hối | 18.2 | 12.7 | 10.5 | 5.2 | 12.6 | 19.1 |
8 | -Dịch vụ thẻ NH | 5.25 | 2.87 | 1.75 | 0.5 | 8.1 | 5.1 |
9 | -Dịch vụ thanh toán | 10.8 | 10.1 | 6.8 | 3.2 | 7.75 | 10.2 |
10 | -Dịch vụ uỷ thác, đại lý | 0.8 | 0.7 | 0.8 | 0.7 | 0.8 | 0.8 |
11 | - Dịch vụ khác | 3.45 | 2.23 | 1.75 | 0.15 | 1.05 | 2.5 |
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển dịch vụ ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - 8
- Phát triển dịch vụ ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - 9
- Phát triển dịch vụ ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - 10
- Phát triển dịch vụ ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - 12
- Phát triển dịch vụ ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - 13
- Phát triển dịch vụ ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - 14
Xem toàn bộ 177 trang tài liệu này.
Nguồn: Tổng hợp từ http://www.sbv.com.vn
Mặc dù các số liệu trên đây là các chỉ số chung, không chỉ tính toán dành riêng cho các DNVVN, tuy nhiên qua bức tranh toàn cảnh trên đây chúng ta có thể thấy tỷ lệ trong cơ cấu thu nhập của các ngân hàng lớn của Việt nam hiện nay. Ta có thể thấy một số xu hướng chung như sau:
Nguồn thu từ cho vay chiếm tỷ trọng lớn, trên 60% trong tổng nguồn thu của các ngân hàng trên
Thế mạnh của các ngân hàng trong từng lĩnh vực thể hiện rất rõ trong tỷ trọng doanh thu của nhóm dịch vụ đó trong tổng doanh thu của ngân hàng. Ví dụ như ngân hàng ACB và Ngân hàng ngoại thương Việt nam với thế mạnh về lĩnh vực thanh toán đã có tỷ trọng dịch vụ thanh toán chiếm trên 10%. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV) và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có tỷ trọng các hoạt động cho vay-cấp tín dụng khá lớn.
Các số liệu tổng hợp trên ở chừng mực nào đó cho ta thấy những thách thức và cơ hội trong phát triển dịch vụ ngân hàng dành cho doanh nghiệp nói chung và các DNVVN Việt nam nói riêng. Đặc biệt hơn cả là các số liệu trên đây cho chúng
ta thấy phần nào các dịch vụ mà các ngân hàng Việt nam cần phát triển để phục vụ tốt hơn nữa các DNVVN. Đơn cử là trong thời gian vừa qua việc các ngân hàng cho ra đời dịch vụ bao thanh toán đã được các doanh nghiệp đón nhận tích cực.
2.2.1. Đối với dịch vụ huy động vốn
Trong tình hình hiện nay, dịch vụ huy động vốn-một dịch vụ truyền thống lâu đời của các ngân hàng đã được các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng sử dụng tương đối triệt để và có hiệu quả.
Bên cạnh việc bảo quản nguồn tiền nhàn rỗi và sử dụng các dịch vụ ngân hàng khác, các doanh nghiệp hiện nay cả ở các khu vực thành thị và các vùng nông thôn đã sử dụng rộng rãi dịch vụ này phục vụ cho hoạt động sản xuất-kinh doanh. Các loại tiền gửi phổ biến bao gồm tiền gửi có kỳ hạn khác nhau từ không kỳ hạn cho tới 12 tháng, tiền gửi bằng ngoại tệ…
Việc lựa chọn loại tiền tệ nắm giữ để có “rổ ngoại tệ” hợp lý nhằm giảm thiểu rủi ro và tạo thuận lợi cho quá trình kinh doanh hiện nay chưa được các DNVVN quan tâm một cách thoả đáng.
Nếu như các doanh nghiệp lớn thường có các bộ phận chuyên trách về công việc này thì ở các DNVVN thường vẫn do phòng nghiệp vụ kế toán đảm nhiệm và chưa được chú ý một cách đúng mức. Trên thực tế một số lượng lớn các DNVVN chưa có chuyên gia phụ trách quản lý ngoại tệ.
Bảng 2.6 dưới đây đem lại góc nhìn tổng quan về tình hình huy động vốn từ nền kinh tế của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Các số liệu ở bảng 2.6 đã cho thấy mức tăng trưởng khá cao trong huy động vốn của các TCTD với mức tăng ổn định trong vòng 3 năm qua. Cùng với tỷ trọng huy động vốn giảm của các NHTMNN là sự gia tăng nhanh chóng tỷ trọng huy động vốn của các NHTMCP. Điều này cũng lý giải một thực tế đó là vị trí ngày càng tăng của khối các NHTMCP trong việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay. Kết quả này có được là nhờ vào sự năng động và tự chủ cao của các ngân hàng này.
Bảng 2.6. Huy động vốn từ nền kinh tế của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Đơn vị: %
2000 | 2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 2006 | |
Tăng trưởng vốn huy động | 32 | 25 | 23 | 24 | 22 | 26 | 34 |
Tỷ trọng vốn huy động trung, dài hạn/tổng vốn huy động | 27 | 28 | 31 | 28 | 29 | 30 | 30 |
Tỷ trọng vốn huy động bằng VND/tổng vốn huy động | 60 | 60 | 66 | 71 | 71 | 72 | 77 |
Tỷ trọng huy động vốn của các loại hình tổ chức tín dụng | 100 | 100 | 100 | 100 | 100 | 100 | 100 |
- NHTMNN | 80.2 | 79.2 | 78.1 | 76.6 | 73.3 | 71.2 | 65.9 |
- NHTMCP | 8.4 | 9.2 | 10.1 | 12 | 14.6 | 15.8 | 20.5 |
- NHLD và chi nhánh ngân hàng nước ngoài | 10 | 9.8 | 9 | 10.1 | 10.8 | 10.1 | 10.9 |
- Tổ chức tín dụng phi ngân hàng | 0.1 | 0.1 | 0.1 | 0.1 | 0.2 | 2.2 | 2.1 |
- Quí tín dụng nhân dân | 1.3 | 1.7 | 2.7 | 1.1 | 1.1 | 0.7 | 0.6 |
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt nam (2007), Định hướng chiến lược và giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng giai đoạn 2006-2010, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành.
Bên cạnh đó, chúng ta cần có một cái nhìn sâu sắc hơn về dịch vụ huy động vốn vì các lý do và phân tích dưới đây:
Thứ nhất, đây là dịch vụ mà dựa trên đó các doanh nghiệp đưa ra sự lựa chọn sẽ sử dụng dịch vụ của ngân hàng nào mà khởi đầu bằng việc đưa ra quyết định sẽ mở tài khoản tiền gửi ở đâu. Nhiều ngân hàng do sao lãng khâu này, tập trung vào nhóm các dịch vụ giá trị gia tăng khác nên đã bỏ qua một lượng khách hàng lớn.
Thứ hai, đó là tầm quan trọng của các dịch vụ hỗ trợ đi kèm, trong nhiều trường hợp là không thu phí như thông báo về tình hình tài khoản, các tiện ích cho doanh nghiệp và cá nhân chủ doanh nghiệp khi sử dụng tài khoản tại ngân hàng.
Một đặc điểm quan trọng chúng ta cần lưu ý là đối với các DNVVN thì khái niệm doanh nghiệp và hình ảnh của doanh nghiệp luôn gắn liền với người chủ doanh nghiệp đó, do vậy ảnh hưởng và tác động của ngân hàng tới người chủ doanh nghiệp gần như quyết định quan hệ của ngân hàng với doanh nghiệp.
Thứ ba, đối với các DNVVN luôn có sự cân nhắc giữa việc chọn lựa mở tài khoản và sử dụng dịch vụ của một ngân hàng lớn (của Nhà nước hoặc Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối) với việc sử dụng dịch vụ của ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng qui mô nhỏ hơn cùng với sự linh hoạt hơn trong thủ tục. Thực tế đã cho thấy là các DNVVN thường lựa chọn các nhà cung cấp dịch vụ với các thủ tục đơn giản phù hợp với cung cách quản lý của các DNVVN hiện nay.
Dịch vụ tiền gửi chiếm tới hơn 80% nguồn vốn huy động của các TCTD Việt Nam. Vài năm gần đây, nhờ đa dạng hoá và phát triển một số dịch vụ tiền gửi mới như: gửi tiền một nơi rút nhiều nơi, gửi tiết kiệm có mục đích, tiết kiệm bằng vàng… nên số tiền huy động tại các tổ chức tín dụng không ngừng tăng lên. Tính từ 1997 đến 2004 cho thấy nguồn vốn huy động trên GDP tăng mạnh: năm 1997 là 14,1%, năm 1998: 21,1%; 1999: 22,9%; 2000 tăng lên 29,0% ; năm 2001: 31% ;
năm 2002 : 33,6%; năm 2003: 22,7% và năm 2004: 21%.
Ví dụ tại Hà nội, thị phần huy động của khối NHTM Nhà nước là 78,6%, NHTM cổ phần là 9,8%, ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh là 10,3%. Tỷ lệ tương ứng cuối năm 2004 là 75,3%, 12,5% và 12,1%.
2.2.2. Đối với dịch vụ tín dụng
Trước khi đề cập tới dịch vụ tín dụng cho DNVVN ở Việt nam, cũng cần có đánh giá chung về các nguồn vốn của doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Đối với phần lớn các DNVVN Việt nam, vốn phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp thường đến từ hai nguồn chính:
Nguồn vốn phi chính thức: bao gồm vốn tự có, lợi nhuận của doanh nghiệp để tái đầu tư, đóng góp của các cổ đông sáng lập, của các thành viên trong gia đình, bạn bè của các cán bộ quản lý (bao gồm cả thân nhân ở nước ngoài