Xử Lý Tài Sản Theo Hợp Đồng Cho Vay Và Hợp Đồng Bảo Đảm


thẩm quyền để bảo vệ tài sản, bảo vệ quyền lợi của khách hàng vay (khoản 3, Điều 10, Điều 17 Luật các TCTD năm 2010).

Tóm lại, pháp luật về HĐCV chỉ ghi nhận trách nhiệm thu hồi nợ của các TCTD theo thỏa thuận trong HĐCV, hợp đồng bảo đảm. Việc thực hiện như thế nào trên thực tế còn phụ thuộc vào thái độ thiện chí của bên vay, bên bảo đảm. Vì vậy, pháp luật cần thiết lập một cơ chế chủ động cho các TCTD trong hoạt động kinh doanh nói chung và cả trong công tác thu hồi nợ. Cơ chế này bao gồm cả công tác xử lý tài sản bảo đảm nhanh chóng, minh bạch, khi đó mới đáp ứng tiêu chí nhanh chóng xử lý nợ xấu như các mục tiêu được luận án đề cập.

b) Bán khoản nợ phát sinh từ hợp đồng cho vay

Theo pháp luật ngân hàng, khoản nợ được bán là những khoản nợ khó đòi, khả năng thu hồi vốn thấp (những khoản nợ xếp vào nhóm nợ 3, 4, 5) theo nguyên tắc công khai, minh bạch, phù hợp với giá thị trường (Điều 5, Nghị quyết số 42/2017).

Hầu hết điều khoản bán nợ vẫn được TCTD đặt ra, khẳng định quyền đơn phương bán nợ cho bên thứ ba, quyền năng này không phụ thuộc vào ý chí của bên vay có đồng ý hay không. Chẳng hạn, tại điểm a, mục 5 của Phụ lục A Hợp đồng tín dụng số 0443/2016/100 ngày 14/6/2016 ký giữa Ngân hàng thương mại cổ phần NA với Công ty trách nhiệm hữu hạn Gra có ghi: “Ngân hàng được quyền bán toàn bộ số nợ của bên vay hoặc chuyển giao quyền đòi nợ đối với hợp đồng tín dụng… mà không cần bất cứ sự đồng ý nào của Bên vay”. Thỏa thuận trên minh chứng rằng, ngay từ khi ký kết hợp đồng vay, các bên ý thức việc bán nợ sẽ do TCTD chủ động quyết định. Trách nhiệm của bên mua nợ vẫn tiếp tục thực hiện những điều khoản đã được bên bán (TCTD) xác lập với khách hàng vay trước đó, theo nguyên tắc: Quyền và lợi ích gắn liền với khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm được bên bán nợ giữ nguyên hiện trạng và chuyển giao cho bên mua nợ theo hợp đồng mua, bán nợ như quy định của pháp luật hiện hành (khoản 1, Điều 7 Thông tư số 19/2013/TT-NHHN ngày 6/9/2013).

Xét về bản chất pháp lý, quan hệ hợp đồng mua bán nợ theo quy định của pháp luật hiện nay không đơn thuần là sự tự do thỏa thuận, chuyển giao quyền đòi nợ. Các giới hạn của quyền tự do hợp đồng được thể hiện rõ nét dựa trên các nguyên tắc cơ bản về an toàn vay, mang tính mệnh lệnh hành chính (theo các điều kiện bắt buộc do các nhà làm luật đặt ra). Thật vậy, khoản 1, Điều 21 Thông tư số 19/2013/TT-NHNN quy định về mua, bán và xử lý nợ xấu thì TCTD phải bán nợ khi có tỷ lệ nợ xấu từ 3% so với tổng dư nợ tín dụng trở lên. Nếu không chấp hành quy định này, NHNN áp dụng các biện pháp thanh tra, kiểm toán, đánh giá lại chất lượng giá trị tài sản, vốn chủ sở hữu và vốn điều lệ của TCTD; bắt buộc bán nợ xấu để đảm bảo tỷ lệ nợ ở mức an toàn; thực hiện trích lập dự phòng rủi ro và tuân thủ các tỷ lệ an toàn; cơ cấu lại TCTD theo phương án được NHNN phê duyệt.

Từ thực tiễn pháp lý nêu trên, thiết nghĩ giao dịch mua bán nợ phát sinh từ HĐCV vẫn tồn tại những bất hợp lý, làm cản trở đến tiến trình xử lý nợ xấu của các TCTD như sau:


Thứ nhất, điều khoản mua bán nợ của các TCTD với khách hàng thiếu các căn cứ xác lập trách nhiệm giữa hai bên, cũng như đối với bên liên quan (bên mua nợ). Quan hệ này chỉ dừng lại giữa các bên mua bán nợ chứ chưa ràng buộc trách nhiệm giữa bên vay với bên mua nợ (giữa con nợ với chủ nợ mới).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

Thứ hai, sau khi bán nợ, thông thường bên mua nợ ràng buộc vào hợp đồng những điều khoản về trách nhiệm của bên bán (TCTD), đồng thời vẫn ủy quyền cho TCTD thực hiện nghiệp vụ thu hồi nợ. Trách nhiệm xử lý nợ xấu trên thực tế vẫn thuộc về TCTD, điều này dẫn đến nghịch lý là bên mua nợ là chủ nợ nhưng lại không chủ động xử lý nợ, gây khó khăn khi xem xét trách nhiệm hợp đồng, kể cả trong quan hệ tố tụng nếu tranh chấp xảy ra (các cơ quan tố tụng khó xác định tư cách của TCTD là bên liên quan hay người đại diện hợp pháp).

Dựa vào tiêu chí hiệu quả của HĐCV (lợi ích của các bên thu được từ hợp đồng vay), có thể nhận thấy: Với quy định mua bán nợ như trên sẽ làm cho công tác quản lý của NHNN được tăng cường, an toàn hơn vì hoạt động này mang tính mệnh lệnh hành chính, theo các điều kiện nhà nước đặt ra. Đây là ưu điểm của pháp luật, song, lợi nhuận phát sinh từ HĐCV bị sụt giảm, làm tăng thêm gánh nặng nên nhiều TCTD không muốn bán nợ, tâm lý che dấu nợ, nên hiệu quả của phương án này về kinh tế đối với TCTD không đạt được cao.

Pháp luật Việt Nam về hợp đồng cho vay trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng - 16

Điều 5, 6 của Nghị quyết số 42/2017/QH14 vừa ban hành đưa ra những quy định “cởi trói”, tạo những bước đột phá trong hoạt động mua bán nợ. Theo đó, tổ chức mua bán nợ xấu, xử lý nợ xấu được bán nợ xấu cho pháp nhân, cá nhân, bao gồm cả doanh nghiệp không có chức năng kinh doanh mua, bán nợ;... Quy định này tạo ra cơ chế thông thoáng, căn bản hơn cho các TCTD, kể cả bên mua nợ, giải quyết bế tắc trong công tác xử lý nợ xấu hiện nay.

Tóm lại, các quy định mua bán nợ phát sinh từ giao dịch vay vẫn chưa bảo đảm hài hòa lợi ích của TCTD khi tham gia giao dịch mua bán nợ. Pháp luật ngân hàng cần giảm tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro đồng thời phải bảo đảm quyền được hưởng chi phí, nhân lực đã bỏ ra trong suốt quá trình xử lý nợ xấu sau khi khoản nợ được bán, thay vì để các bên thỏa thuận khi đó bên mua nợ tiếp tục đặt ra trách nhiệm đối với các TCTD quản lý nợ, tự tham gia các hoạt động tố tụng để kiện đòi lại nợ như hiện nay.

3.3.5.3. Xử lý tài sản theo hợp đồng cho vay và hợp đồng bảo đảm

a) Biện pháp xử lý tài sản bảo đảm theo hợp đồng cho vay, hợp đồng bảo đảm

- Bán tài sản bảo đảm tiền vay:

Xử lý tài sản bảo đảm luôn là vấn đề khó khăn đối với các TCTD vì ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ sở hữu, người đang trực tiếp quản lý tài sản đó. Do đó, yếu tố đồng thuận, minh bạch khi xử lý tài sản có ý nghĩa quyết định sự thành công, không phát sinh bất kỳ tranh chấp, hay mâu thuẫn quyền lợi trong suốt quá trình xử lý. Dựa trên cơ sở lý luận về tài sản và quyền sở hữu, yếu tố này còn có ý nghĩa tôn trọng quyền định đoạt tài sản của bên bảo đảm, khi chưa có quyết định có hiệu lực xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.


Các TCTD thông thường chủ động đưa vào điều khoản HĐCV, hợp đồng bảo đảm quyền chủ động xử lý tài sản bảo đảm có nội dung khá chi tiết. Theo điều khoản của hợp đồng, bán tài sản bảo đảm không chỉ giới hạn ở phương thức thực hiện đó còn là các nội dung bàn giao, quản lý tài sản bảo đảm trong thời gian tài sản bảo đảm đó chưa bán được.

Trong các thỏa thuận định giá trị bất động sản được bảo đảm tiền vay, thông thường các bên chỉ ghi ước lượng giá trị tài sản để ấn định hạn mức cấp tín dụng. Thỏa thuận này không được xem là giá trị thực tế, phù hợp với thị trường để làm căn cứ phát mãi tài sản khi có tranh chấp (Ví dụ: Biên bản thẩm định giá ngày 21/09/2015161 của một TCTD với khách hàng có ghi: “II.- Việc xác định giá trị tài sản bảo đảm tại Biên bản này chỉ để làm cơ sở xác định mức cho vay của Ngân hàng, và không áp dụng khi xử lý tài sản để thu hồi nợ”.

Như vậy, các bên tuy có thỏa thuận biện pháp xử lý tài sản bảo đảm khi ký kết hợp đồng vay, nhưng để xử lý cụ thể như thế nào vẫn còn là những vướng mắc khi áp dụng. Các cơ quan pháp luật vẫn chưa xem thỏa thuận ban đầu về tài sản bảo đảm khi cấp tín dụng là đầy đủ, khách quan. Do đó, thỏa thuận về giá trị tài sản (tại thời điểm cấp tín dụng) chưa đủ cơ sở cho phép các TCTD được đơn phương nhận hoặc chuyển nhượng tài sản bảo đảm để cấn trừ nợ, nếu không có sự đồng tình của chủ sở hữu, tại thời điểm xử lý tài sản đó.

Các nhà làm luật đã dự liệu, thiết lập cơ chế pháp lý xử lý tài sản bảo đảm được thực hiện theo quy định của pháp luật trong trường hợp các bên không đồng thuận về phương thức, giá trị tài sản dựa trên các nguyên tắc minh bạch, bảo đảm sự tham gia của bên bảo đảm. Thật vậy, theo khoản 1, Điều 304 BLDS năm 2015, Điều 65 Nghị định 163/2016/NĐ-CP ngày 29/12/2006 sửa đổi năm 2012 về giao dịch bảo đảm, thì tài sản đó phải được bán đấu giá. Riêng đối với tài sản bảo đảm xác định được giá cụ thể, rõ ràng thì không phải qua thủ tục này, nhưng TCTD phải minh bạch khi quyết định bán những tài sản đó.

Đối với những tài sản được xử lý theo quyết định tòa án, trọng tài, trên cơ sở xác định số nợ tại thời điểm xét xử, tòa án cũng tuyên bố cách thức xử lý tài sản bảo đảm theo pháp luật về thi hành án nếu bên phải thi hành án (bên vay) không tự giác thực hiện.

- Mua lại tài sản bảo đảm tiền vay (nhận chính tài sản để thay thế việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm):

Quy định tài sản có được từ xử lý nợ không phải là hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, pháp luật ngân hàng đã khẳng định quyền tham gia xử lý nợ của các TCTD, tạo thuận lợi cho các TCTD được nhận tài sản bảo đảm để cấn trừ nợ theo thỏa thuận. Cùng với những cải cách trong thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm sau khi xử lý… quy định này đã minh chứng cho sự nỗ lực của các nhà làm luật đưa pháp luật gần với thực tiễn, giải quyết phần nào các vướng mắc phát sinh


161 Biên bản này được ký kết giữa Ngân hàng thương mại cổ phần NA với Công ty trách nhiệm hữu hạn TY


trong hoạt động mua bán tài sản bảo đảm để cấn trừ nợ, nhưng vẫn bảo đảm quyền lợi hợp pháp, chính đáng của các bên.

Về nguyên tắc tự do hợp đồng, các bên có quyền thỏa thuận nhận chính tài sản bảo đảm cấn trừ nợ, sớm đạt được mục tiêu hiệu quả của hợp đồng, như các điều khoản của hợp đồng vay thường đề cập. Chẳng hạn, Hợp đồng cầm cố cổ phiếu số 078.01/2016/BĐ ký ngày 05/5/2016 giữa bà Trịnh Thị H với Ngân hàng thương mại cổ phần PhĐ, tại khoản 2, Điều 4 có ghi như sau: “OCB được toàn quyền… nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm…”. Song quá trình thực hiện thỏa thuận sẽ không tránh khỏi những vướng mắc khi bên vay không hợp tác, pháp luật hiện hành cũng chưa cho phép ngân hàng đơn phương tự thẩm định giá trị của tài sản theo một cơ chế độc lập. Do đó thỏa thuận hợp đồng như trên bị vô hiệu hóa, bên cho vay phải tiến hành các bước xử lý tài sản theo quy định của pháp luật (đấu giá tài sản, khởi kiện ra tòa án để xử lý theo phán quyết tòa án), cho dù trước đó họ đã nhận được văn bản ủy quyền định đoạt toàn bộ tài sản bảo đảm.

Vấn đề hiện nay, đó là khâu thu giữ tài sản bảo đảm để triển khai xử lý theo các bước thỏa thuận ghi trong HĐCV rất cần những công cụ pháp lý mạnh mẽ, hiệu quả. Có như thế công tác xử lý tài sản bảo đảm chủ động mới đạt được như mong muốn của các nhà làm luật.

b) Cơ chế chủ động xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận hợp đồng

Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm áp dụng chung cho các quan hệ dân sự, kinh tế vẫn còn thiếu một cơ chế pháp lý đặc thù, đột phá, tạo khung pháp lý cho các TCTD triển khai thu hồi nợ, nhanh chóng đưa vốn vay vào kinh doanh.

Từ các quy định theo: Nghị quyết số 42/2017/QH14, Quyết định số 1058/QĐ- TTg ngày 19/7/2017 của Thủ tướng Chính Phủ về đề án cơ cấu lại hệ thống TCTD gắn với xử lý nợ xấu (giai đoạn 2016-2020), Chỉ thị số 06/CT-NHNN ngày 20/7/2017 của Thống đốc NHNN yêu cầu các TCTD quán triệt thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14,… và gần đây, ngành tòa án cũng đã ban hành Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 quy định về giải quyết tranh chấp tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, cụ thể hóa các thủ tục tố tụng rút gọn, khẳng định quyết tâm thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14.

Về phương diện lý luận, cơ chế xử lý nợ làm chuyển đổi vai trò của ngân hàng từ “Ngân hàng đi kiện để thu nợ” chuyển sang mô hình “Ngân hàng đương nhiên được xử lý tài sản để thu nợ162 được đặt ra, tranh luận sôi nổi trong các hội thảo khoa học pháp lý. Tác giả Nicolas Audier (Luật gia Pháp) quan tâm, nêu lên vấn đề này như sau: “Tính linh hoạt của quy định pháp luật cũng không bù đắp được một số hạn chế quan trọng khi mà bên bảo đảm từ chối thi hành xử lý biện pháp bảo đảm trên cơ sở tự



162 Xem: T.TU (2004), Hiệp hội Ngân hàng kiến nghị quyền được thu nợ của Ngân hàng. Nguồn: http://tuoitre.vn/Kinh-te/29052/Hiep-hoi-Ngan-hang-kien-nghi-quyen-duoc-thu-no-cua-ngan-hang.html


nguyện…”,163 đã thể hiện tầm quan trọng, quyết định sự thành công của cơ chế này trong công tác xử lý nợ.

Từ luận điểm nêu trên, theo tác giả luận án, quyền chủ động xử lý tài sản bảo đảm phải được thực thi trên nguyên tắc: TCTD nắm giữ tài sản bảo đảm thực tế để xử lý dưới các hình thức được pháp luật cho phép (phát mãi hoặc nhận tài sản bảo đảm để cấn trừ nợ), đồng thời phải bảo đảm quyền lợi hợp pháp, chính đáng của bên liên quan đến tiến trình xử lý những tài sản đó.

Trong việc nắm giữ tài sản bảo đảm thực tế để xử lý, pháp luật ghi nhận vai trò của “Ủy ban nhân dân cấp xã” (Điều 63 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP) tham gia thu giữ tài sản bảo đảm. Nhưng với tư cách là cơ quan hành chính, gặp trường hợp có sự phản ứng, chống đối của bên bảo đảm, người đang quản lý tài sản cần được xử lý, việc thu giữ tài sản đó khó thực hiện được vì thiếu tính cưỡng chế. Công tác thu giữ tài sản bảo đảm để phát mãi (bán) hay cấn trừ nợ vẫn còn nhận thức là giao dịch dân sự, do các bên hợp đồng tự giải quyết…

Nghị quyết số 42/2017/QH14 được Quốc hội ban hành vào thời điểm công tác xử lý nợ gặp nhiều khó khăn, bế tắc, nghị quyết mở ra nhiều quy định mới, đột phá, khẳng định quyết tâm của nhà nước, của các nhà làm luật. Điểm tích cực đó là, nghị quyết đã cụ thể hóa các điều kiện để nắm giữ thực tế tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu (nhân tố quan trọng, trước tiên khi tiến hành xử lý tài sản bảo đảm), tạo ra những tác động tích cực trong công tác xử lý tài sản bảo đảm của các ngân hàng nhưng vẫn bảo đảm tính đồng thuận, tránh những áp đặt, can thiệp của nhà nước vào các quan hệ kinh tế, dân sự; đồng thời, xác định phạm vi áp dụng nghị quyết là chỉ khi giao dịch bảo đảm hoặc biện pháp bảo đảm đã được đăng ký theo quy định của pháp luật, không bị tranh chấp, bị kê biên, phong tỏa theo quyết định cơ quan nhà nước. Quy định này giúp các ngân hàng chủ động lựa chọn, xây dựng các biện pháp xử lý, tiếp tục đề cao tính minh bạch của công tác này (Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14).

Về công tác thu giữ tài sản bảo đảm, công tác này phải theo trình tự tố tụng đặc thù tránh gây mất trật tự xã hội, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, xuất phát từ những cơ sở sau đây: Một là, bên bảo đảm phải bàn giao tài sản bảo đảm kịp thời để xử lý nên việc thu hồi những tài sản này mang tính bắt buộc, thay vì phụ thuộc vào ý chí tự giác của bên bảo đảm, bên đang chiếm giữ tài sản bảo đảm. Bởi lẽ, ngay tự thân hành vi “thu giữ” tài sản đã thể hiện tính cưỡng chế; Hai là, về khâu tổ chức thực hiện, pháp luật cho phép thi hành các quyết định, bản án nên cũng phải tuân theo trình tự thủ tục tố tụng. Với việc ghi nhận áp dụng thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm tại tòa án (Điều 8 Nghị quyết số 42/2017/QH14); quy định các tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đang bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tại TCTD không bị kê biên (Điều 11 Nghị quyết số 42/2017/QH14)… pháp luật về xử lý nợ xấu đã xây


163 Nicolas Audier, Hiệu quả của giao dịch bảo đảm: Góc nhìn của luật gia nước ngoài, trích từ tài liệu Hội thảo quốc tế: Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Hội thảo diễn ra ngày 29/9/2014, tr. 294


dựng, hình thành cơ chế pháp lý đặc thù, chưa từng có ở Việt Nam trước đây, hướng đến mục tiêu xóa bỏ những trở ngại khi xử lý tài sản bảo đảm trên thực tế.

Nghị quyết ra đời trong bối cảnh hiện nay đã tạo tâm lý an tâm, phấn khởi cho các TCTD, tạo hiệu ứng tích cực trong công tác mua bán nợ, xử lý tài sản trên thị trường. Mặc dù vậy, công tác xử lý tài sản bảo đảm, bên cạnh những tranh chấp thường thấy về giá trị tài sản bảo đảm theo thị trường, bán đấu giá thiếu minh bạch,… pháp luật trong lĩnh vực này vẫn còn nhiều tồn tại làm hạn chế thực hiện cơ chế chủ động như mong muốn của các nhà làm luật:

Thứ nhất, tình trạng tài sản bị trì hoãn xử lý do thuộc quyền quản lý, sử dụng chung của nhiều người, đang có tranh chấp (các quy định về tố tụng chưa cho phép áp dụng thủ tục rút gọn). Pháp luật cần đề cập nguyên tắc: Bên phát sinh yêu cầu tranh chấp phải chủ động khởi kiện trong thời hạn ấn định hợp lý. Nếu không thực hiện, TCTD được vận dụng quyền chủ động ưu tiên xử lý tài sản đó, phần tài sản còn lại trong khối tài sản chung được giao chủ sở hữu tài sản chung theo quy định của pháp luật. Quy định này giải quyết tình trạng tắc nghẽn khi xử lý tài sản bảo đảm thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng chung của nhiều người, mở ra hướng giải quyết tranh chấp theo đúng pháp luật, có kết quả cụ thể nhanh chóng.

Thứ hai, quyền đầu tư, tôn tạo tài sản bảo đảm của các TCTD trong quá trình nắm giữ tài sản để xử lý, thu hồi nợ vẫn chưa được pháp luật ghi nhận cụ thể. Theo khoản 3, Điều 132 Luật các TCTD năm 2010 thì trong thời hạn 03 (ba) năm kể từ ngày quyết định xử lý tài sản bảo đảm là bất động sản, TCTD phải bán, chuyển nhượng hoặc mua lại bất động sản này để bảo đảm tỷ lệ đầu tư vào tài sản cố định. Pháp luật ngân hàng cần bổ sung quy định về quyền được tôn tạo tài sản bảo đảm (kể cả khai thác có giới hạn tài sản như: cho thuê, tiếp tục duy trì hoạt động sản xuất đối với nhà xưởng…) trong thời gian này (03 năm), khắc phục khoảng trống trong công tác quản lý, sử dụng tài sản bảo đảm trước khi chính thức được phát mãi.

Thứ ba, trong nhiều trường hợp, bên bảo đảm chưa thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, phí, bao gồm các loại thuế liên quan đến tài sản bảo đảm, phát sinh từ hoạt động của chủ sở hữu tài sản. Việc xác định trách nhiệm, ưu tiên thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với tài sản bảo đảm trên nguyên tắc phải được thực hiện trước khi tài sản đó được đưa ra xử lý. Trong khi đó, bên bảo đảm tài sản thường chây ỳ, không chấp hành nghĩa vụ này, do vậy các cơ quan thuế bắt buộc bên bảo đảm phải thực hiện hết các nghĩa vụ thuế, cho dù khoản thuế phải nộp đó không liên quan đến tài sản bảo đảm… dẫn đến mâu thuẫn tranh chấp phát sinh.

Thứ tư, một thời gian dài trước đây, các TCTD nỗ lực tiến hành nhiều biện pháp nghiệp vụ pháp lý chủ động bán tài sản bảo đảm tiền vay, song những nỗ lực này bị vô hiệu hóa từ chính hoạt động tố tụng của tòa án. Nguyên nhân là do bên bảo đảm hoặc bên vay lợi dụng hoạt động tố tụng cản trở quyền chủ động xử lý tài sản của các TCTD thông qua các hành vi khởi kiện hoặc yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời


(không cho chuyển dịch quyền sở hữu, quyền sử dụng) đối với chính tài sản đang được TCTD quan tâm xử lý.164

Thứ năm, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do chậm xử lý tài sản bảo đảm chưa được pháp luật quy định. Điều này tạo điều kiện các TCTD tự ý xử lý tài sản có giá trị thanh khoản cao, xử lý vào thời điểm có lợi cho chính các TCTD như có phán quyết của tòa án đã chỉ rõ trách nhiệm của ngân hàng về bồi thường thiệt hại do ngân hàng gây ra.165 Đây là minh chứng điển hình về hành vi thiếu minh bạch trong công tác xử lý tài sản bảo đảm. Pháp luật cần khắc phục tình trạng này bằng việc ghi nhận công tác xử lý, chuyển nhượng tài sản bảo đảm tại thời điểm nhận bàn giao, thu giữ tài sản bảo đảm (nếu các bên không có thỏa thuận khác).

Tóm lại, trong HĐCV, các bên thỏa thuận biện pháp xử lý tài sản bảo đảm, nhưng nếu không có sự hợp tác tích cực thì các biện pháp này khó thực hiện được. Các nhà làm luật đã dự liệu, kịp thời thiết lập cơ chế chủ động xử lý tài sản bảo đảm. Đây là điểm mới, tiến bộ, khẳng định quan điểm cương quyết của nhà nước trong công cuộc xử lý nợ xấu. Thực thi các quy định này sẽ tiết giảm chi phí, nguồn nhân lực cho các TCTD, thay vì để tranh chấp kéo dài, phụ thuộc vào công tác tố tụng của tòa án.

Từ những tồn tại, phát thảo hướng giải quyết ban đầu nêu trên, để bảo đảm quyền chủ động hơn nữa trong công tác xử lý tài sản bảo đảm theo đúng tinh thần Nghị quyết 42/2017/QH14, thiết nghĩ cần có công trình nghiên cứu chuyên sâu, đánh giá đầy đủ thực trạng, những tác động, hiệu quả đạt được, không chỉ giới hạn phạm vi một đề mục luận án.



164 Ví dụ: Ngày 03/6/2015, Tòa án nhân dân quận TB, TP. Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 24/2012/QĐ- BPKCTT phong tỏa hai căn nhà số 166-168 Nguyễn Hồng Đ, quận TB đã được thế chấp tại một ngân hàng với để bảo đảm thi hành án. Theo tình huống pháp lý này, tòa án đã phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ bảo đảm nợ của ngân hàng là không đúng pháp luật, cản trở TCTD quyền xử lý tài sản bảo đảm để cấn trừ nợ vay.

165 Xem thêm: Quyết định Giám đốc thẩm số 13/2015/KDTM-GĐT ngày 21/5/2015 của Tòa án nhân dân tối cao về việc tuyên buộc ngân hàng bồi thường thiệt hại với lý do: cả hai bên đều có lỗi trong việc xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ (có thể xem trường hợp này là rủi ro trong kinh doanh, nên các bên phải có trách nhiệm hạn chế mức thiệt hại phát sinh thấp nhất cho nhau). Xem thêm: Phụ lục 03 – Tóm lược những vụ án tranh chấp HĐCV điển hình (Vụ án thứ 03)


Kết luận chương 3


Pháp luật HĐCV đã có nhiều thay đổi, tiệm cận với nền kinh tế, thể hiện rõ nét quan điểm của các nhà làm luật tập trung củng cố quan hệ hợp đồng, an toàn vay. Song, dựa vào các tiêu chí đánh giá hiệu quả, và qua phân tích thực trạng pháp luật, luận án định vị, làm rõ những tồn tại, cần được khắc phục, hoàn thiện như sau:

1. Luận án làm sáng tỏ các quy định về chủ thể HĐCV vốn dĩ có địa vị và năng lực pháp lý không đồng đều, chỉ ra những rủi ro do có nhiều người đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp, giải pháp trong trường hợp doanh nghiệp nhận khoản vay theo quy định hiện nay; Những nhu cầu cần được các nhà làm luật quan tâm sửa đổi để bảo đảm tương đối quyền bình đẳng địa vị pháp lý của các chủ thể hợp đồng; Chứng minh các quy định của pháp luật về giới hạn những chủ thể cho vay tại Việt Nam phù hợp với tiêu chí theo kinh nghiệm pháp luật quốc tế; Các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền tiếp cận tín dụng của khách hàng tiềm năng vẫn còn chưa có luận điểm rõ nét, nguy cơ xảy ra khi cho vay đối với chủ thể có lợi ích liên quan.

2. Quy định về hình thức của HĐCV với các yêu cầu bắt buộc về nội dung như hiện nay là phù hợp, tương đồng với pháp luật các nước. Tuy nhiên, trong quan hệ pháp lý với giao dịch bảo đảm tiền vay, các quy định này mới chỉ đáp ứng các nguyên tắc chung của giao dịch dân sự, kinh tế, chưa thể hiện rõ nét quan hệ vay trong lĩnh vực ngân hàng vốn dĩ phức tạp, kéo dài, nhiều khoản vay; vận dụng vào thực tiễn vẫn còn rời rạc, nhiều quan điểm khác biệt, nguy cơ dẫn đến giao dịch bị vô hiệu, gây mất an toàn vay, điển hình qua các giao dịch “giả cách”, tài sản bảo đảm có nguồn gốc tội phạm, đẩy rủi ro cho các ngân hàng.

3. Các nghĩa vụ chủ yếu của HĐCV, quy định sử dụng vốn vay đúng mục đích thể hiện những ưu điểm của luật, phù hợp thông lệ cho vay. Mặc dù vậy, nghĩa vụ cung cấp thông tin của TCTD vẫn chưa cân xứng, chưa bảo đảm ý nghĩa là một nghĩa vụ hợp đồng, mới chỉ dừng lại ở các nghĩa vụ thông tin về tiền vay, lãi suất, chưa có hình thức chế tài vi phạm cụ thể. Trong công tác kiểm tra, giám sát, các TCTD vẫn còn xem nhẹ, chưa thiết lập quy trình kiểm tra, giám sát chặt chẽ, kể cả khâu xử lý khi phát hiện bên vay có sai phạm, làm gia tăng mất kiểm soát, nguy cơ mất vốn vay cao.

4. Các quy định về lãi suất, phí tín dụng tiếp tục được luận án đề cập, khẳng định là điều khoản quan trọng, then chốt, tác động trực tiếp đến lợi ích hợp đồng của các bên. Song, từ những phân tích cho thấy các quy định này vẫn còn bộc lộ những hạn chế: Sự thiếu minh bạch khi lãi suất điều chỉnh, thu phí tín dụng, làm giảm niềm tin của khách hàng đối với TCTD; Tỷ lệ lãi suất nợ quá hạn ấn định như hiện nay khá cứng nhắc, không làm rõ phạm vi áp dụng cho các đối tượng đặc thù, những chia sẻ khi có rủi ro khách quan nếu bên vay không trả nợ vay, nhất là đối với đối tượng là bên vay tiêu dùng, cần được đề cao bảo vệ.

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 09/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí