Tác Động Của Nợ Xấu Đến Hoạt Động Của Tổ Chức Tín Dụng


khoản tiền TCTD cấp cho khách hàng vay sử dụng trong khoảng thời hạn nhất định theo sự thỏa thuận của các bên và khi hết thời hạn này, TCTD có quyền thu hồi số tiền đã cấp nhưng gặp khó khăn ở khâu thu hồi vốn và lãi. Giá trị của quyền tài sản này phụ thuộc vào số tiền TCTD đã cấp cho khách hàng và số lãi xác định theo lãi suất đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa TCTD và khách hàng. Vì quyền tài sản này có thể chuyển giao trong các giao dịch dân sự nên TCTD hoàn toàn có thể bán cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu. Tuy nhiên, do nợ xấu là những khoản nợ khó thu hồi và tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao nên giá mua bán cần được tính toán lại theo những phương pháp xác định giá phù hợp nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên.

Tại Điều 3 Thông tư 02/TT-NHNN của thống đốc NHNN ngày 21/01/2013: Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì nợ xấu được định nghĩa như sau: “Nợ xấu (NPL) là nợ thuộc các nhóm 3, 4, và 5”. Và cũng tại Điều 10 Thông tư này được hiểu nhóm 3 là nhóm nợ dưới tiêu chuẩn, nhóm 4 là nhóm nợ nghi ngờ và nhóm 5 là nhóm nợ có khả năng mất vốn

Thông qua những phân tích trên có thể hiểu, nợ xấu từ hoạt động cho vay của TCTD là một loại quyền tài sản hình thành khi nghĩa vụ trả nợ của khách hàng đối với TCTD không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ sau một khoảng thời gian luật định hoặc được TCTD nhận định khách hàng rất có thể không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ.

Như vậy, so với định nghĩa “nợ xấu” dưới góc độ tài chính và kinh doanh, định nghĩa “nợ xấu” theo nghĩa pháp lý mặc dù cũng nhất trí về thuộc tính quá hạn của khoản nợ nhưng dường như không đề cao những khía cạnh hạch toán khoản nợ và mục đích giảm bớt chi phí cũng như tăng cường hiệu quả quản trị kinh doanh của Người cho vay (TCTD). Thay vào đó, các nhà luật học đề cao bản chất pháp lý của nợ xấu bằng cách nhìn nhận nợ xấu dưới góc độ pháp lý, là: quyền tài sản của chủ nợ; là nghĩa vụ trả nợ không được thực hiện bởi con nợ; là quyền thu hồi nợ của chủ nợ. Và những quyền cũng như nghĩa vụ này luôn phải được nhìn nhận gắn với một


ngưỡng thời gian luật định nào đó mà nếu chưa tới ngưỡng đó thì khoản nợ chưa thể coi là “nợ xấu”.

1.1.2. Đặc điểm về nợ xấu


- Nợ xấu từ hoạt động cho vay của TCTD theo nghĩa pháp lý là nói tới những khoản nợ ngân hàng thoả mãn ba điều kiện sau: (1) khách hàng (Người vay) không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với TCTD (Người cho vay); (2) việc trì hoãn thực hiện nghĩa vụ trả nợ đã vượt quá một khoảng thời gian luật định; và (3) Người cho vay nhận thấy nguy cơ không có khả năng thu hồi nợ ở thời điểm nghĩa vụ trả nợ bị trì hoãn tới ngưỡng thời gian nói trên.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.

- Nợ xấu là nghĩa vụ pháp lý không được thực hiện. Đó là nghĩa vụ của khách hàng vay phải trả gốc và lãi cho TCTD. Nghĩa vụ này phát sinh trên cơ sở hợp đồng vay vốn đã được xác lập giữa TCTD và khách hàng. Về nguyên tắc, nghĩa vụ này phát sinh kể từ thời điểm hợp đồng vay vốn đáo hạn nhưng không được khách hàng vay thực hiện đúng và đầy đủ, nhưng điều đó không có nghĩa, mọi nghĩa vụ trả nợ không đúng hạn đều là nợ xấu. Mọi khoản nợ chỉ được đánh giá là nợ xấu khi khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ của mình sau một khoảng thời gian nhất định hoặc bản thân TCTD nhận định khách hàng khó có khả năng trả nợ do bị lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán hay chủ doanh nghiệp bỏ trốn.

- Nợ xấu là một loại tài sản trong giao dịch dân sự vì vậy TCTD có toàn quyền lựa chọn phương án bán cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu, trừ trường hợp giữa TCTD và khách hàng vay đã có thỏa thuận trước đó về việc không bán nợ xấu. Như vậy, nợ xấu không phải là thứ tài sản bỏ đi, không có giá trị hay “hoàn toàn xấu” như tên gọi của loại nợ này ngụ ý, nếu được đánh giá đúng, nợ xấu có thể trở thành “mặt hàng” tiềm năng trên thị trường và mua bán nợ xấu có thể trở thành ngành nghề kinh doanh mang lại lợi nhuận lớn đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ mua bán nợ.

Pháp luật về xử lý nợ xấu tại các tổ chức tín dụng Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi nhánh Tây Quảng Ninh - 3

- Đây là những khoản nợ không có tài sản thế chấp hoặc tài sản đưa ra để thế chấp không đủ để trả nợ. Điều đó đồng nghĩa với việc ngân hàng không thể thu hồi đầy đủ món nợ vì người mắc nợ rất khó kiếm được lợi nhuận từ công việc kinh


doanh hoặc người mắc nợ không liên lạc với ngân hàng để thanh toán hoặc hoàn cảnh chỉ rõ rằng phần lớn tiền nợ sẽ không thể thu hồi được.

- Chủ thể của khoản nợ xấu (Khách hàng vay): là các đối tượng vay vốn phải có khả năng trả nợ hoặc phải có bảo đảm tại thời điểm vay. Ngoài ra, các khoản vay của các chủ thể này thường phải có tài sản bảo đảm.

1.1.3. Nguyên nhân của nợ xấu


Tìm hiểu nguyên nhân, nguồn gốc phát sinh để có thể hiểu và đưa ra được kết luận chính xác là việc làm không thể thiếu để có thể giải quyết nợ xấu. Có phân tích thấu đáo các nguyên nhân gây ra nợ xấu thì mới có thể đưa ra được các biện pháp xử lý thích hợp. Các nhà nghiên cứu đã tìm ra được rất nhiều nguyên nhân đa dạng và phong phú. Song nhìn chung, chúng có thể được sắp xếp và gói gọn vào các nhóm nguyên nhân sau:

1.1.3.1. Nguyên nhân từ phía khách hàng


Bởi vì khách hàng là người được cấp tín dụng, là người trực tiếp sử dụng khoản vay, nên nguyên nhân từ phía khách hàng là nguyên nhân chính gây nên rủi ro tín dụng - rủi ro lớn nhất của TCTD. Lí do mà khách hàng gây nên khoản nợ xấu đó là:

* Rủi ro đạo đức từ phía khách hàng


- Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích xin vay đã nêu trong phương án vay vốn và trong hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa TCTD và khách hàng. Nguồn tiền vay không được sử dụng để phát triển sản xuất, kinh doanh mà dành cho những mục tiêu chứa đựng nhiều rủi ro hơn, gây thất thoát tiền vốn, dẫn đến giảm hoặc mất khả năng trả nợ vay. Nhiều khách hàng dùng tiền của TCTD quay vốn không đúng đối tượng kinh doanh hoặc xử lý vốn vay ngắn hạn để đầu tư vào tài sản cố định hoặc kinh doanh bất động sản nên đã không trả nợ được đúng hạn.

- Khách hàng cố tình lừa đảo chiếm dụng vốn của TCTD: Một số khách hàng lợi dụng khe hở của pháp luật để tính toán lừa đảo chiếm dụng vốn, vay không có ý


định trả ngay từ khi bắt đầu lập bộ hồ sơ vay vốn. Một số khách hàng cố tình chây ỳ không thực hiện những cam kết trong hợp đồng tín dụng.

* Khó khăn về dòng tiền hoặc khả năng thanh toán


Trong quá trình kinh doanh, nhiều doanh nghiệp đã phán đoán không chính xác xu hướng phát triển của thị trường, dẫn đến mở rộng quy mô sản xuất trong các ngành đang phát triển quá nóng mà không có sự đánh giá kỹ lưỡng. Hậu quả là sự mất cân bằng trong cung và cầu. Một số doanh nghiệp khi thực hiện các dự án lớn lại chia nhỏ dự án để tìm tài trợ từ nhiều ngân hàng khác nhau, qua đó giúp các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc vay vốn từ các TCTD cũng như giảm bớt sự kiểm soát của TCTD. Chính những yếu tố này làm cho TCTD gặp khó khăn trong việc kiểm soát các khoản cho vay, dẫn đến tình trạng nợ xấu trong hoạt động tín dụng của TCTD.

Ngoài ra do trình độ, năng lực quản lý kinh doanh của doanh nghiệp còn yếu kém làm giảm hiệu quả kinh doanh, thậm chí còn gây thua lỗ, dẫn đến việc gặp khó khăn về dòng tiền, làm giảm khả năng thanh toán nợ vay. Nhiều doanh nghiệp tham gia kinh doanh quá nhiều mặt hàng, vay vốn mở rộng sản xuất kinh doanh vượt khả năng quản lý, hoặc dự đoán sai nhu cầu thị trường, nhập một số lượng hàng hóa quá lớn, dẫn đến ứ đọng hàng hoá, tồn đọng vốn, dẫn đến tính trạng nợ không trả được.

1.1.3.2. Nguyên nhân từ phía TCTD


* Vấn đề lựa chọn đối nghịch của TCTD


TCTD quyết định cho vay dựa vào hồ sơ xin vay, và một số thông tin tín dụng khác từ bên ngoài, nhưng luôn có những thông tin mà khách hàng đã che dấu, hoặc do TCTD không thể đoán biết trước được việc sử dụng vốn vay trong thực tế của hách hàng. Dẫn tới quyết định cho vay nhầm đối tượng, cho khách hàng có danh mục đầu tư nhiều rủi ro vay. Một khi khách hàng này gặp khó khăn về tài chính, thì khoản tiền mà TCTD cho vay cũng khó thu hồi lại được.

Vấn đề này xảy ra là do:


- Chất lượng thông tin tín dụng không cao: Các nguồn thông tin của TCTD còn hạn chế, thiếu hệ thống cung cấp thông tin tín dụng chính xác, đầy đủ.Ngoài những thông tin do khách hàng cung cấp, cán bộ tín dụng cũng gặp nhiều khó khăn với các kênh thông tin về khách hàng như việc khó kiểm chứng được toàn bộ những thông tin mà khách hàng cung cấp cho ngân hàng. Tâm lý một số cán bộ muốn đẩy phần rủi ro cho ngân hàng khác bằng cách chỉ cung cấp thông tin tốt về khách hàng đó khi ngân hàng bạn hỏi thăm.

- Trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng còn hạn chế: khi thẩm định dự án cho vay vốn, cán bộ tín dụng yếu về nghiệp vụ, khả năng phân tích các báo cáo tài chính kém kết hợp với việc thiếu thông tin về khách hàng nên chưa đánh giá được đầy đủ về tính khả quan của dự án.

- Đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng chưa cao: Ngân hàng là ngành kinh doanh đặc thù, cần dựa trên sự tin cậy và mức độ tín nhiệm thì đạo đức phải được đặt lên hàng đầu và ở khía cạnh nào đó còn mang tính bắt buộc. Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một số cán bộ tín dụng tiếp tay cho khách hàng làm giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để có quyết định cho vay đúng thủ tục.

* Các TCTD nới lỏng điều kiện phê duyệt tín dụng


Thực tế cho thấy, việc cạnh tranh thu hút khách hàng buộc các ngân hàng phải nới lỏng điều kiện tín dụng: tỷ lệ cho vay/ trị giá tài sản bảo đảm, tín chấp, cầm cố hàng hóa không giám sát chặt khoản vay; tỷ lệ cho vay/nhu cầu vốn… Áp lực tăng trưởng nóng buộc một số ngân hàng phải nới lỏng điều kiện tín dụng để cạnh tranh thu hút khách hàng về trong các năm gần đây và kết quả là tỷ lệ nợ xấu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại ngày càng gia tăng.

* Thiếu giám sát và quản lý nợ sau khi cho vay


Khi TCTD cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm bảo sẽ đựơc hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của TCTD nói chung. Tuy nhiên,


nhiều TCTD có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà không quan tâm thích đáng đến khâu kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của một số cán bộ tín dụng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà TCTD yêu cầu.

* Cơ chế xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng còn nhiều bất cập


Nợ xấu trong hoạt động tín dụng của TCTD ở Việt Nam đã tồn tại từ lâu nhưng quá trình xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng của TCTD lại thiếu hiệu quả, nguyên nhân là do cơ chế xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng của TCTD chưa thực sự hợp lý, còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế.

1.1.3.3. Nguyên nhân từ môi trường kinh tế chính trị


* Diễn biến kinh tế xã hội trong nước:


Dù ít hay nhiều, các hoạt động sản xuất kinh doanh luôn phải chịu tác động trực tiếp hay gián tiếp của môi trường kinh tế xã hội, như sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá, các cuộc khủng hoàng kinh tế thế giới và khu vực.

Trong một nền kinh tế tăng trưởng lành mạnh, tiềm năng sản xuất và tiêu dùng của xã hội lớn thì hoạt động sản xuất kinh doanh có điều kiện tốt để phát triển. Nhưng trong một nền kinh tế bị khủng hoảng, đang đà xuống dốc, tỷ lệ lạm phát cao, sản xuất bị đình trệ, đầu tư giảm sút, thu nhập của mọi thành viên trong xã hội đều giảm thì khả năng phát triển sản xuất kinh doanh là rất kém, ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động kinh doanh của TCTD. Tác động xấu của tình hình kinh tế xã hội như vậy sẽ làm ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân, gây tác động xấu đến khả năng thu hồi vốn tín dụng của TCTD.

* Sự thay đổi chính sách của Nhà nước:


Đó là sự thay đổi về chính trị, điều chỉnh chính sách, chế độ, luật pháp của Nhà nước. Những thay đổi và điều chỉnh đó là rất cần thiết trong quá trình phát triển của đất nước, nhưng tuỳ nơi, tuỳ lúc sẽ tác động mạnh đến hoạt động kinh doanh

14


của các doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hoàn trả tín dụng của khách hàng đối với TCTD. Do tính chất hoạt động kinh doanh của TCTD có liên quan đến rất nhiều bộ, ngành và lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, mỗi thay đổi về cơ chế chính sách của Nhà nước cũng đều có thể tác động tới kết quả hoạt động của TCTD, đặc biệt là hoạt động tín dụng - một hoạt động kinh doanh chủ yếu của TCTD.

* Môi trường pháp lý:


Đây là một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng tới khả năng phát sinh nợ quá hạn. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và văn bản dưới luật mà chưa được đầy đủ đồng bộ, không đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các tổ chức kinh doanh, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, gây nên các khoản nợ quá hạn cho TCTD.

1.1.3.4. Nguyên nhân khác


Thiên tai, dịch bệnh phá hoại sản xuất kinh doanh: Đây là những biến cố khách quan không thể lường trước được, nó có tác động trực tiếp và ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhiều khi những biến cố này làm cho TCTD cho vay bị mất trắng không thể thu hồi được khoản nợ. Thiên tai và dịch bệnh không loại trừ ai, nó ảnh hưởng tới khả năng thực hiện phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ vay của người đi vay.

1.1.4. Tác động của nợ xấu đến hoạt động của tổ chức tín dụng


1.1.4.1. Đối với các tổ chức tín dụng.


- Nợ xấu sẽ làm tăng chi phí hoạt động của các TCTD, do vậy lợi nhuận của TCTD giảm. Chi phí hoạt động của TCTD tăng bao gồm kể cả chi phí dự phòng rủi ro và chi phí hoạt động cho việc thu hồi nợ xấu. Vấn đề nợ xấu đã buộc các TCTD sử dụng một nguồn lực đáng kể cho việc thu hồi và xử lý nợ xấu, như trích lập dự phòng, xiết nợ, thanh lý tài sản thế chấp... thay vì dùng những nguồn nhân lực và tài lực để cung cấp tín dụng và phục vụ thị trường. Những tài sản hiện hữu đóng vai trò là những tài sản đảm bảo tại TCTD ngày càng bị hư hỏng làm giá trị sử dụng lẫn giá trị của tài sản sẽ bị mất dần theo thời gian. Bên cạnh đó, việc duy trì, bảo dưỡng, quản lý, giám sát làm cho các TCTD bỏ ra một khoản tiền không nhỏ. Do các tài

15


sản thế chấp có tính thanh khoản không cao, nên ảnh hưởng đến lợi nhuận bị suy giảm, cùng lúc chất lượng tài sản bị suy giảm và khoản trích lập dự phòng gia tăng. Từ đó, dẫn đến chi phí sử dụng vốn vay ngày càng tăng. Tỷ lệ nợ xấu gia tăng sẽ làm suy giảm khả năng sinh lợi của TCTD.3

- Nợ xấu sẽ không khai thông được nguồn vốn để cho vay: Với tình trạng nợ xấu gia tăng, không những các TCTD tìm mọi cách để không cho các món nợ tốt (nhóm 1) nhảy nhóm và trở thành nợ quá hạn (nhóm 2) hay trở thành nợ xấu (nhóm 3 - 5), mà các TCTD đều rất cẩn thận cho vay mới do tình trạng tài chính của doanh nghiệp suy giảm, thiếu hay không còn thế chấp và tài sản đảm bảo, hàng tồn kho tăng cao làm gián đoạn vòng quay vốn và tài sản lưu động, khó chứng minh được nguồn hoàn trả cũng như tính khả thi của nhiều dự án.

- Nợ xấu cao có thể đẩy TCTD rơi vào tình trạng mất vốn, mất thanh khoản và mất lòng tin của người dân. Khi nợ xấu gia tăng thì đồng nghĩa với nguồn vốn “đầu tư” sẽ bị đóng băng, không có khả năng thu hồi. Nguồn vốn cho vay không có khả năng thu hồi được thì khả năng thanh toán giảm. Khủng hoảng trong thanh toán là nguyên nhân dễ dẫn đến sự phá sản của các TCTD. Hơn nữa, nợ xấu làm gián đoạn vòng quay vốn của các TCTD: những món nợ khó đòi, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn ngăn chặn dòng tiền trở lại với TCTD và có thể nhanh chóng tạo tình trạng mất thanh khoản nếu số nợ xấu tăng cao.

- Nợ xấu sẽ làm suy giảm năng lực tài chính của các TCTD, vì thế ảnh hưởng đến sự ổn định của khu vực tài chính. Do tỷ lệ nợ xấu gia tăng, lợi nhuận của các TCTD vì thế sẽ bị suy giảm. Điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng lực tài chính và khả năng tồn tại lành mạnh của TCTD, đặc biệt đối với các TCTD nhỏ sẽ rất dễ bị phá sản. Lợi nhuận không đạt với những khoản nợ khó đòi trong nhiều quí và chính TCTD cũng trở thành những con nợ với những khoản nợ khổng lồ và buộc phải đi đến kết cục bị phá sản hay bị thôn tính sáp nhập.


3 Nguyễn Thị Thu Cúc,”Quản lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam”,

Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội năm 2015, tr.21.

Xem tất cả 89 trang.

Ngày đăng: 10/02/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí