Về Phía Ngân Hàng Thương Mại Nhà Nước

và giao thông vận tải, với con số công nợ lên tới 11.000 tỷ đồng, trong đó theo báo cáo của Bộ Tài chính có tới hơn 90% khoản nợ này là thuộc vốn vay ngân hàng thương mại nhà nước. Trong khi đó, khu vực dân doanh đã có bước phát triển vững mạnh không ngừng, làm ăn thực sự có lãi nhưng gặp rất nhiều khó khăn khi tiếp cận được nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Sự phân biệt đối xử trong cho vay tuy đã có giảm song nỗi bức xúc của doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn còn. Khi cho vay, các ngân hàng đã phân biệt người vay có tài sản hay không có tài sản và mặc nhiên bỏ qua các yếu tố khác như uy tín, hiệu quả sử dụng vốn, với thói quen ưu đãi doanh nghiệp nhà nước và nghi ngại doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Việc phân biệt dẫn đến sự nhầm lẫn trong việc lựa chọn khách hàng để cho vay và hậu quả của nó là sự dây dưa, chây ỳ, không có khả năng trả nợ. Hệ quả là, các doanh nghiệp muốn vay thì phải thiếu trung thực, các ngân hàng sẽ bị suy giảm khả năng kiểm soát tình trạng sử dụng vốn vay của khách hàng. Tuy vậy chính sự yếu kém của khối doanh nghiệp nhà nước mới là hiểm họa. Theo cảnh báo của IMF, số nợ của các ngân hàng thương mại nhà nước có thể sẽ lại trên 4% GDP. Rủi ro tín dụng rất dễ xảy ra.

Hai là, các ngân hàng thương mại nhà nước chưa có sự quản trị rõ ràng về danh mục cho vay. Một số ngân hàng thương mại nhà nước chưa có Ủy ban quản lý tài sản nợ (tài sản Nợ - tài sản Có), trong danh mục cho vay hiện nay đều hiện diện hầu hết các nhóm hàng và dịch vụ. Cạnh tranh giành thị phần ở các ngành, các nhóm khách hàng mà chính ngân hàng mình không có sở trường đã mang đến rủi ro bất thường ở một số ngân hàng thương mại. Trong chính sách cho vay còn có điểm chưa rõ ràng là quy định về nhóm khách hàng liên quan, sau này mới được quy định tại Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, trên thực tế các công ty thành viên của tổng công ty có tư cách pháp nhân độc lập. Khi họ là khách hàng vay vốn của ngân hàng thương mại thì mức cho vay

cũng tuân theo quy định ≤ 15% vốn tự có của ngân hàng thương mại. Với cách hiểu này, tuy không phạm luật nhưng với những ràng buộc lỏng và trong giai đoạn vốn ứ đọng, vô hình chung đã đưa ngân hàng thương mại vào tình thế rủi ro cao.

Ba là, các ngân hàng thương mại nhà nước chưa công bố công khai về danh mục cho vay: như đặc điểm của một danh mục cho vay chất lượng cao, loại hình cho vay, thời gian đáo hạn, quy mô và chất lượng của khoản vay. Việc công bố danh mục cho vay theo báo cáo thường niên của ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam hầu như chỉ dừng lại ở sự thống kê khoản mục cho vay vào các ngành hoặc loại công việc ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Tuy vậy, thông tin một danh mục cho vay chất lượng cao, thời gian cho vay… của một ngân hàng theo chiến lược và theo đặc thù riêng ít được truyền dẫn đến công chúng.

Ngoài ra, còn tồn tại vấn đề là các doanh nghiệp nhà nước được "ưu đãi lãi suất". Trên thực tế, nếu áp dụng đúng nguyên tắc thị trường thì lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước phải là cao nhất, vì mức độ rủi ro cao, phần lớn cho vay không có tài sản bảo đảm hoặc có tài sản bảo đảm thì hồ sơ pháp lý chưa đủ hoặc thủ tục về thế chấp tài sản của doanh nghiệp nhà nước phức tạp, không phải lúc nào cũng được các ngành, nhất là cơ quan ký quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước đồng ý cho cầm cố, thế chấp dây chuyền sản xuất chính. Tuy nhiên, trên thực tế, lãi suất cho vay doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tổng công ty gần như là thấp nhất trong các nhóm khách hàng. Việc cho vay dựa vào các dự án chỉ định của Chính phủ cũng đã diễn ra với mục đích bù lãi suất và tránh rủi ro pháp luật. Đây là căn nguyên sâu xa dẫn đến khoản tín dụng chất lượng thấp. Cũng xuất phát ở điểm này, khi các Bộ ngành vẫn xem xét trình Chính phủ xử lý, thì mức độ lỗ vốn của ngân hàng thương mại nhà nước trong các món vay này đã vượt khỏi dự kiến ban đầu.

Bên cạnh đó, việc phân định rõ giữa khâu thẩm định và khâu cho vay ở các ngân hàng thương mại nhà nước chưa thực sự rõ ràng. Thẩm định và

cho vay vẫn cùng do cán bộ tín dụng làm, sau đó qua kiểm soát của lãnh đạo phòng tín dụng và giám đốc duyệt cho vay, các khâu tiếp cận lập hồ sơ, tờ trình tài liệu thông tin chủ yếu dựa trên thông tin của khách hàng cung cấp nguồn thông tin từ kênh khác nhau để kiểm định. Quy chế về Hội đồng tín dụng đã được ban hành, việc thẩm định các món vay vượt mức phân công ủy quyền hoặc trong trường hợp người có quyền quyết định thấy có vấn đề cần lấy ý kiến của Hội đồng tín dụng thì có quyền đề nghị họp Hội đồng tín dụng. Các thành viên của Hội đồng tín dụng gần như không phải là chuyên gia trong các lĩnh vực, thời gian đọc và nghiên cứu tài liệu vẫn chỉ dừng lại ở sự cung cấp của cán bộ tín dụng. Việc thuê chuyên gia tư vấn các lĩnh vực mà ngân hàng ít am hiểu hầu như chưa có, thêm vào đó, việc ràng buộc trách nhiệm của bên tư vấn cũng chưa chặt chẽ, ngân hàng chỉ dựa trên thẩm định của các cơ quan chức năng thường là chủ quản của doanh nghiệp dẫn đến việc "thuận tình" giữa các bên để vay được vốn ngân hàng trở nên phổ biến hiện nay. Tách bạch giữa hai khâu thẩm định và cho vay đã khó, việc đòi hỏi bóc tách ba khâu: thẩm định - cho vay - thu hồi nợ sẽ là vấn đề lâu dài, nhất là đối với các ngân hàng thương mại nhà nước khi mà vấn đề sở hữu chưa được cải cách.

Mặt khác, chúng ta đều nhận thấy tư tưởng vay cho bằng được, vay bằng mọi giá để kỳ vọng vào việc khoanh, xóa, giãn nợ đã ăn sâu vào tiềm thức của người vay thì việc giải quyết các vụ thi hành án mà phía ngân hàng thương mại đã thắng kiện trở thành một điều rất khó khăn. Việc niêm phong tài sản của khách hàng vay vốn khi không trả được nợ là "một hành trình gian khổ", điều mà cán bộ tín dụng luôn phải gánh trọng trách.

Hơn nữa, việc quản trị, đánh giá, lựa chọn về tài sản bảo đảm còn yếu kém. Quản trị danh mục tài sản bảo đảm là một khâu quan trọng trong công tác quản trị ngân hàng thương mại nhà nước. Đối với Việt Nam, các quy định của pháp luật đã có và được tiến hành ở một mức độ nhất định nhưng việc quản lý, đánh giá, phân loại, dự báo, cảnh báo về danh mục những tài sản mà một ngân hàng thương mại lựa chọn, xét ưu tiên, nhận làm bảo đảm tiền vay

chưa có tính thống nhất mà chỉ dừng lại ở sự kiểm tra hồ sơ pháp lý, định kỳ đánh giá lại giá trị để điều chỉnh mức dư nợ cho vay hoặc yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản bảo đảm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

Nợ tồn đọng phát sinh đã lâu nhưng chậm có cơ chế trích lập dự phòng rủi ro nên lãi giả vẫn phải nộp ngân sách, nợ tồn đọng thì không có nguồn dự phòng để giải quyết. Trước năm 1999, các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam chỉ trích lập dự phòng từ nguồn 10% lợi nhuận để lại mà không căn cứ vào mức độ rủi ro. Vì vậy, các ngân hàng hầu như không còn khả năng tài chính để tự giải quyết tình trạng nợ xấu của mình. Chỉ từ sau năm 1999, các ngân hàng mới áp dụng cơ chế dự phòng rủi ro. Nhưng chỉ mới vài năm trích lập dự phòng không thể bù đắp được nợ tồn đọng cho cả một quá trình lịch sử dài đã đặt các ngân hàng thương mại nhà nước vào thực trạng khó khăn về mặt tài chính.

Ngoài những nguyên nhân kể trên, nhìn trên bình diện rộng, rõ ràng môi trường pháp lý nước ta chưa hoàn chỉnh, (Luật đất đai, Luật Tổ chức tín dụng, Luật Doanh nghiệp …) với những qui phạm, văn bản còn chồng chéo, mâu thuẫn. Điều này gây ra những tác động tiêu cực không nhỏ đến ngân hàng, biểu hiện ở sự tồn tại của nợ xấu. Có thể dẫn ra trường hợp vụ án nổi tiếng Tamexco. Hệ thống các ngân hàng chấp nhận các hợp đồng chuyển nhượng, nhận thầu thi công đất đai trên cơ sở các quyết định giao đất của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố và chủ trương làm thử việc sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng (hay còn gọi là " chủ trương đổi đất lấy cơ sở hạ tầng") áp dụng thí điểm cho tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sau đó nhiều địa phương khác cũng áp dụng. Tuy nhiên trên thực tế, giữa chủ trương với biện pháp thực thi vẫn còn rất nhiều khoảng cách mà một trong những điều chưa hợp lý đó là một số cơ quan chức năng, không phân biệt được thế nào là một việc sử dụng, chuyển nhượng đúng pháp luật hoặc giá trị thế chấp, bảo đảm cho các khoản nợ vay ngân hàng là giá trị đầu tư trên đất? [28]. Phân tích như trên mới thấy những tác động "ngược" của quy phạm pháp luật đến các hoạt

Pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam - 4

động ngân hàng là không nhỏ. Hệ quả là, việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản gặp rất nhiều khó khăn sau đó. Thậm chí, pháp luật cho vay có bảo đảm bằng tài sản còn quá nhiều bất cập, mâu thuẫn, thậm chí chồng chéo. Đó là nguyên nhân lớn gây ách tắc trong phát mại tài sản, khiến cho ngân hàng không có nguồn để cấn trừ nợ. Đặc biệt là những bất cập liên quan đến ba nhóm chính:

- Các bất cập liên quan tới điều kiện của tài sản bảo đảm như quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, đăng ký pháp lý đối với tài sản bảo đảm chưa phù hợp với thực tiễn.

- Các bất cập liên quan tới thủ tục nhận tài sản bảo đảm như các quy định về thủ tục xin phép thế chấp cầm cố không minh bạch, quy định về định giá tái sản bảo đảm mang nặng tính hình thức.

- Các bất cập trong xử lý tài sản bảo đảm như chưa trao quyền chủ động xử lý cho ngân hàng, trình tự xử lý tài sản bảo đảm kéo dài, với chi phí rất lớn.

1.4.2. Nguyên nhân chủ quan

Nguyên nhân chủ quan gây ra nợ xấu có rất nhiều nhưng điểm xuất phát cũng từ chỗ: Một mặt luật pháp còn nhiều kẽ hở, cơ chế chính sách còn đang trong quá trình đổi mới, mặt khác, việc thực hiện không nghiêm và kém hiểu biết về nghiệp vụ đưa đến sự cố tình hoặc vô tình làm sai.

1.4.2.1. Về phía ngân hàng thương mại nhà nước

Trong một thời gian dài, hoạt động của các ngân hàng thương mại nhà nước vẫn chỉ trong tình trạng lấy ngắn nuôi dài, thiếu một chiến lược kinh doanh hiệu quả và bền vững. Dù đã có nhiều đổi mới song hoạt động tín dụng ở một số ngân hàng vẫn chủ yếu là chạy theo tín hiệu thị trường, nếu thị trường đất đai sôi động thì cho vay kinh doanh bất động sản, nếu địa phương nào có phong trào cho vay nuôi tôm thì cho vay nuôi tôm, khi rộ lên phong trào chơi chứng khoán thì cho vay kinh doanh chứng khoán … Các ngân hàng đầu tư số lượng vốn lớn vào các lĩnh vực nhạy cảm như bất động sản, chứng khoán… dù biết các lĩnh vực này tăng trưởng lúc thì quá nóng, lúc thì đóng

băng, gây nên tình trạng nợ đọng. Trong hoàn cảnh thị trường bất động sản mới hình thành, việc định giá bất động sản dễ dãi, vượt quá giá chuyển nhượng trên thị trường, bỏ qua việc phòng ngừa rủi ro khiến thị trường này rơi vào trạng thái bất ổn rất nhanh.

Bên cạnh đó, chức năng kinh doanh, sự chủ động sáng tạo của các ngân hàng thương mại chưa được thực sự tôn trọng. Dù luật pháp đã chỉ rõ chức năng của ngân hàng thương mại là kinh doanh, nhưng các ngân hàng thương mại nhà nước hoàn toàn không tự chủ với hoạt động của mình. Cho vay theo chỉ đạo của Chính phủ, theo kế hoạch của Nhà nước… khiến các ngân hàng lớn không hoàn toàn né tránh được những tác động chỉ thị mang tính hạn chế nhằm can thiệp, chi phối hoạt động cho vay của họ. Ngay cả Ngân hàng Nhà nước - đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các hoạt động tín dụng trong toàn quốc, trong nhiều văn bản quy phạm đưa ra vẫn can thiệp quá sâu vào hoạt động của các ngân hàng này bằng cách cụ thể hóa từng quy trình nghiệp vụ cụ thể. Vì vậy mà nảy sinh tính ỷ lại, đối phó. Dù tính sáng tạo, tính tự chủ có bị hạn chế nhưng lại có cảm giác an tâm vì luôn có sự bao bọc.

Sự thiếu đa dạng trong hoạt động cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng cũng là một nguyên nhân khiếu nợ xấu tồn tại. Hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động chủ yếu đem lại thu nhập cao nhất cho các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại nhà nước đã song hành với công cuộc cải tổ và đổi mới bằng việc mở rộng và phát triển mảng dịch vụ. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm đổi mới, hoạt động tín dụng và nguồn thu từ hoạt động này vẫn đóng vai trò chủ yếu, tỷ lệ thu lãi cho vay của một số ngân hàng vẫn chiếm trên 70%, cá biệt có ngân hàng lên đến > 80% tổng thu. Nguồn thu nợ từ hoạt động dịch vụ ngân hàng còn chiếm tỷ trọng thấp. Việc quản lý tín dụng vẫn theo lối cổ truyền. Yếu tố này làm tăng mức rủi ro tiềm ẩn cho các ngân hàng thương mại nhà nước (phụ lục 3)

Một nguyên nhân nội tại khác của phía ngân hàng xuất phát từ khả năng và điều kiện xử lý nợ tồn đọng của ngân hàng, có thể nói là thấp, biểu hiện cụ thể:

Thứ nhất, sự phối hợp giữa ngân hàng và các ban ngành khác nhau trong xử lý nợ còn thiếu chặt chẽ, ngân hàng chưa thực sự nhận được sự ủng hộ tích cực của các ngành, cấp có liên quan. Thậm chí các cơ quan trên coi đó là việc riêng của ngành ngân hàng.

Thứ hai, chế độ chính sách về đảm bảo, xử lý tài sản chưa thông thoáng.

Thứ ba, vấn đề định giá tài sản đảm bảo và thủ tục định giá còn nhiều vướng mắc về giá cả, cơ chế

Thứ tư, trình độ, kinh nghiệm quản lý và tác nghiệp của một số cán bộ và lãnh đạo của hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước còn chậm phát hiện các nguy cơ rủi ro tiềm ẩn, dẫn đến những sai lầm trong các quy định cho vay và chất lượng tín dụng không tốt kéo dài. Trong một thời gian dài, cơ chế chính sách lỏng lẻo chưa có sự thưởng phạt nghiêm minh, chịu trách nhiệm đến cùng của các cá nhân đối với các khoản do họ cho vay mà không thu được, tạo ra chất lượng tín dụng thấp. Thực tế, có nhiều cán bộ cho vay và lãnh đạo các chi nhánh ngân hàng vẫn bình an và lên chức, trong khi sau một thời gian dài các khoản do họ cho vay đều không thu hồi được và thất thoát. Một bộ phận nhỏ cán bộ trong hệ thống ngân hàng bị sa sút về phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp trong cơ chế thị trường đã gây thiệt hại kinh tế cho các ngân hàng. Lực lượng lao động trong ngân hàng hầu hết chuyển tiếp từ hệ thống ngân hàng thời bao cấp. Số mới tuyển dụng chưa tích lũy được nhiều kiến thức và kinh nghiệm trong nền kinh tế thị trường. Do vậy, đôi khi cán bộ ngân hàng không bắt kịp mạch phát triển của nền kinh tế, bỏ lỡ cơ hội đầu tư.

Bên cạnh những yếu tố kể trên, sự thiếu độc lập của Ngân hàng Nhà nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ đã gây ra những hiệu ứng thiếu tích cực trong hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước có nhiều bất cập trong việc thanh tra, giám sát tài chính. Hệ thống bộ máy tổ chức Ngân hàng Nhà nước theo tỉnh, thành phố và quan hệ quản lý hành chính lại càng làm giảm tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước. Tương tự, hệ thống các chi nhánh ngân hàng thương mại nhà nước cũng được phân

bố theo địa bàn các tỉnh thành phố và quan hệ hành chính lại càng làm giảm tính độc lập, tự chịu trách nhiệm của các ngân hàng. Trong điều kiện đó, chính quyền địa phương thường can thiệp vào các quyết định cho vay của các ngân hàng thương mại nhà nước một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Vậy nên các quyết định cho vay của các ngân hàng không hoàn toàn mang tính thương mại không phải là điều quá khó hiểu. Không những thế, các dự án cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước thường bị đánh giá với mức độ rủi ro nhỏ hơn so với bình thường. Chính điều đó cũng chứa đựng nguy cơ nợ xấu tăng cao.

Mặt khác, hệ thống quản trị quản lý của các ngân hàng thương mại nhà nước cũng bộc lộ rất nhiều điều bất hợp lý. Đa số các ngân hàng này chưa có hệ thống quản lý rủi ro phù hợp. Khi thị trường tiền tệ còn đang xây dựng, thị trường mở hoạt động tẻ nhạt thì sự tham gia của các ngân hàng thương mại nhà nước đóng vai trò quan trọng đặc biệt. Tuy vậy, việc quản lý, dự báo vốn khả dụng còn hạn chế, công cụ thị trường nghèo nàn, tính lưu hoạt thấp. Các công cụ tài chính thiếu tính linh hoạt chắc chắn cũng hạn chế khả năng quản lý vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng. Hệ quả là năng lực xử lý nợ quá hạn bị hạn chế, sức đề kháng của ngân hàng suy giảm, sự quản lý yếu kém của ngân hàng thương mại luôn đi đôi với tình trạng nợ xấu cao. Một ngân hàng yếu kém trong phân tích tín dụng, chấp nhận các kế hoạch rủi ro quá mức chắc chắn sẽ phải chấp nhận nợ xấu cao.

Không những vậy, công tác tổ chức giáo dục thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của hệ thống ngân hàng chưa đáp ứng được yêu cầu quốc tế, nên chậm phát hiện và xử lý những vi phạm trong quá trình cấp tín dụng. Điều này càng góp phần đẩy mạnh nợ xấu tăng cao.

Điều gây nên sự lo lắng là, do năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại nhà nước chưa đủ mạnh nên công tác xử lý nợ xấu còn chưa thực sự hiệu quả. Ví dụ:

Thứ nhất, do chất lượng tài sản thấp: Tỷ lệ nợ xấu phân theo tiêu chuẩn quốc tế cao (lên tới 2 con số) và chưa được kiểm soát hợp lý, tiềm ẩn rủi ro

Xem tất cả 119 trang.

Ngày đăng: 29/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí