Pháp luật về quản lý giao dịch chứng khoán chưa niêm yết ở Việt Nam - 2

Chương 1‌‌

KHÁI QUÁT VỀ CHỨNG KHOÁN

VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN CHƯA NIÊM YẾT


1.1. KHÁI NIỆM CHỨNG KHOÁN CHƯA NIÊM YẾT VÀ QUẢN LÝ PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN

1.1.1. Khái niệm chứng khoán và phân loại chứng khoán

1.1.1.1. Khái niệm chứng khoán

Thị trường chứng khoán ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế, là nơi phát hành và mua bán chứng khoán.

Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây:

- Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quĩ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

- Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán [14, Điều 6].

Chứng khoán là tài sản tài chính có các đặc điểm sau:

Pháp luật về quản lý giao dịch chứng khoán chưa niêm yết ở Việt Nam - 2

Thứ nhất, chứng khoán có tính thanh khoản: Thanh khoản là khả năng chuyển tài sản đó thành tiền mặt. Khả năng này cao hay thấp phụ thuộc và khoảng thời gian và chi phí cần thiết cho việc chuyển đổi và rủi ro của việc giảm sút giá trị của chứng khoán do chuyển đổi. Chứng khoán có tính thanh khoản cao hơn so với các tài sản khác, thể hiện qua ở chỗ khả năng chuyển nhượng cao trên thị trường và nói chung, các chứng khoán khác nhau có khả năng chuyển nhượng là khác nhau.

Thứ hai, chứng khoán có tính rủi ro: Chứng khoán là các tài sản mà giá trị của nó chịu tác động lớn của rủi ro, bao gồm rủi ro có hệ thống và rủi ro phi hệ thống. Rủi ro có hệ thống hay rủi ro thị trường là loại rủi ro tác động tới toàn bộ hoặc hầu hết các tài sản. Rủi ro phi hệ thống là rủi ro chỉ tác động tới một tài sản hoặc một nhóm tài sản. Các nhà đầu tư (NĐT) thường quan tâm tới việc xem xét, đánh giá các rủi ro liên quan trên cơ sở đó đề ra các quyết định trong việc lựa chọn, nắm giữ hay bán các chứng khoán. Điều này phản ánh mối quan hệ giữa lợi tức và rủi ro hay sự cân bằng về lợi tức - người ta sẽ không chịu rủi ro tăng thêm trừ khi người ta kỳ vọng được bù đắp bởi lợi tức tăng thêm.

Thứ ba, chứng khoán có tính sinh lợi: Chứng khoán là một tài sản tài chính mà khi sở hữu nó, nhà đầu tư mong muốn nhận được thu nhập lớn hơn trong tương lai. Thu nhập này được bảo đảm bằng lợi tức được được phân chia hàng năm và việc tăng giá chứng khoán trên thị trường. Khả năng sinh lời bao giờ cũng quan hệ chặt chẽ với rủi ro của tài sản, thể hiện trong nguyên lý - mức độ chấp nhận rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng cao.

1.1.1.2. Phân loại chứng khoán

* Căn cứ theo tính chất của chứng khoán

Chứng khoán vốn gồm cổ phiếu và chứng chỉ quỹ, là bằng chứng xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu vốn góp và các quyền hợp pháp đối với tổ chức phát hành.

Chứng khoán nợ gồm trái phiếu, tín phiếu, là chứng chỉ ghi nhận nghĩa vụ của người phát hành (người đi vay) phải trả cho người đứng tên sở hữu chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền nhất định bao gồm cả gốc và lãi trong những khoảng thời gian cụ thể.

Chứng khoán phái sinh bao gồm hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn, quyền mua trước, chứng quyền, là các công cụ tài chính có nguồn gốc từ

chứng khoán và có quan hệ chặt chẽ với các chứng khoán gốc. Các chứng khoán phái sinh được hình thành do nhu cầu giao dịch của người mua và người bán và lưu thông phụ thuộc vào mức độ phát triển của thị trường chứng khoán.

* Căn cứ theo khả năng chuyển nhượng

Chứng khoán vô danh bao gồm giấy xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ không ghi tên chủ sở hữu. Loại chứng khoán này được chuyển nhượng dễ dàng, không cần những thủ tục xác nhận của công ty hoặc cơ quan công chứng. Người mua có trách nhiệm chi trả cho người bán theo giá cả đã được xác định.

Chứng khoán ghi danh bao gồm giấy xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ có ghi tên chủ sở hữu. Loại chứng khoán này được phép chuyển nhượng nhưng phải tuân thủ theo những qui định pháp lý cụ thể. Nếu muốn chuyển nhượng, người sở hữu phải chứng minh mình là người được phép và có sổ quyền chuyển nhượng.

* Căn cứ theo khả năng thu nhập

Chứng khoán có thu nhập cố định bao gồm trái phiếu nhà nước, trái phiếu địa phương, trái phiếu công nghiệp - trái phiếu công ty, trái phiếu ngân hàng và tín phiếu quỹ tiết kiệm, tín phiếu kho bạc: là loại chứng khoán có quyền yêu cầu thu nhập cố định, không phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của nhà phát hành. Nó có thể là chứng khoán vô danh hoặc ghi danh, có thể là tín phiếu, trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi. Lợi tức của loại này thường được trả theo quý, theo kỳ hạn nửa năm hoặc là một năm. Mỗi loại chứng khoán có qui định thời hạn trả lợi tức khác nhau. Kỳ hạn của các chứng khoán rất khác nhau, chẳng hạn tín phiếu có kỳ hạn ngắn thường nhỏ hơn hoặc bằng 1 năm, trái phiếu là trung và dài hạn 2-30 năm, cổ phiếu ưu đãi là vô thời hạn. Kỳ hạn này có thể thay đổi do hoạt động chuộc lại chứng khoán của nhà phát hành.

Chứng khoán có thu nhập biến đổi bao gồm cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư. Thu nhập do việc sở hữu cổ phiếu mang lại gọi là cổ tức, nó biến động theo kết quả kinh doanh của công ty. Khác với cổ phiếu phổ thông, ở chứng chỉ quỹ đầu tư - người sở hữu không được quyền tham gia giám sát hoạt động của công ty. Khi phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư, công ty có thể huy động được vốn vô thời hạn, không chịu rủi ro về chi trả lợi tức cố định như cổ phiếu ưu đãi hay trái phiếu song không bị pha loãng quyền kiểm soát của các cổ đông.

Chứng khoán hỗn hợp bao gồm trái phiếu công ty có khả năng chuyển đổi, trái phiếu có quyền mua cổ phiếu, là loại chứng khoán vừa mang tính chất của chứng khoán có thu nhập cố định vừa mang tính chất của chứng khoán có thu nhập không cố định. Việc phát hành chứng khoán này nhằm để thích ứng với yêu cầu đặc biệt của thị trường vốn.

* Căn cứ theo mức độ quản lý chứng khoán

Chứng khoán niêm yết (CKNY) là những loại chứng khoán có đủ điều kiện giao dịch tại Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK), Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (TTGDCK).

CKCNY là những loại chứng khoán của các CTCP có qui mô vừa và nhỏ, các công ty mới thành lập, các công ty hoạt động kinh doanh hiệu quả nhưng chưa đủ điều kiện hoặc chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung.

1.1.2 Quản lý phát hành chứng khoán

1.1.2.1. Khái niệm quản lý phát hành chứng khoán

Phát hành chứng khoán được coi là khâu khởi đầu, tiền đề của các hoạt động trên thị trường chứng khoán. Phát hành chứng khoán để chỉ một công ty cổ phần (CTCP) hoặc Chính phủ chào bán chứng khoán một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng hoặc chào bán riêng lẻ [33].

Có hai phương pháp phát hành chứng khoán trên thị trường chưa niêm yết đó là:

Phát hành riêng lẻ là quá trình trong đó chứng khoán được bán trong phạm vi một số người nhất định (thường là nhà đầu tư có tổ chức) với khối lượng phát hành hạn chế. Việc phát hành chứng khoán riêng lẻ thông thường chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp. Chứng khoán phát hành theo phương thức này không phải là đối tượng giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán.

Phát hành ra công chúng là quá trình trong đó chứng khoán được bán rộng rãi ra công chúng, cho một số lượng lớn nhà đầu tư, trong tổng lượng phát hành phải giành một tỷ lệ nhất định cho các nhà đầu tư nhỏ và khối lượng phát hành phát đạt được một mức nhất định.

Những công ty phát hành chứng khoán ra công chúng được gọi là các công ty đại chúng.

1.1.2.2. Sự khác nhau giữa quản lý chứng khoán niêm yết và chứng

khoán chưa niêm yết

Trong khi ở các nước Nhật Bản, Hàn Quốc việc phát hành chứng khoán chưa niêm yết đã được qui định và quản lý có hệ thống thì ở Việt Nam vẫn còn nhiều khoảng trống trong việc ban hành qui định pháp luật và quản lý.

CKCNY là chứng khoán phát hành theo phương thức phát hành riêng lẻ hoặc theo phương thức chào bán ra công chúng nhưng chưa đăng ký giao dịch tại SGDCK và TTGDCK.

Về đăng ký phát hành, công ty đại chúng có chứng khoán CNY nộp hồ sơ đăng kí tại Trung tâm lưu ký chứng khoán (TTLKCK) thông qua các công ty chứng khoán (CTCK). Còn công ty có CKNY nộp hồ sơ đăng ký trực tiếp tại TTLKCK.

Về điều kiện đăng ký giao dịch, nếu như chứng khoán của các công ty niêm yết phải thực hiện theo điều kiện niêm yết tại Nghị định số 14/2007/CP-NĐ

ban hành ngày 19/01/2007 của Chính phủ về việc qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán năm 2006 thì công ty đại chúng có CKCNY phải đáp ứng đủ điều kiện: là công ty đại chúng đã thực hiện đăng ký chứng khoán tại TTLKCK và được một CTCK làm thủ tục đăng ký thông tin giao dịch [1].

Về các qui định giao dịch, trong đó biên độ dao động giá không qui định đối với CKCNY, ngược lại CKNY có qui định biên độ giá. CKNY có giá tham chiếu là bình quân gia quyền giá giao dịch của ngày giao dịch gần nhất, còn CKCNY thì không có giá tham chiếu. Phương thức thực hiện của CKNY là khớp lệnh và thỏa thuận và NĐT không được phép vừa đặt lệnh mua vừa đặt lệnh bán một loại chứng khoán trong cùng một phiên giao dịch vào những giờ đã được qui định từ 9 - 11h còn CKCNY thì chủ yếu là thỏa thuận, NĐT có thể vừa mua vừa bán cùng một loại chứng khoán trong phiên giao dịch vào bất kỳ thời gian nào trong ngày.

Về công bố thông tin, công ty có CKCNY thực hiện việc công bố thông tin qua CTCK, còn CKNY sẽ thực hiện qua công ty đăng ký giao dịch trực tiếp.

Về quản lý tỷ lệ nắm giữ nước ngoài, công ty có CKCNY thì tỷ lệ nắm giữ nước ngoài là tối đa 30% vốn điều lệ, còn công ty niêm yết thì tỷ lệ đó là tối đa 49% trừ một số loại hình pháp luật có qui định tỷ lệ thấp hơn.

Ở Việt Nam, pháp luật hiện nay không qui định về phát hành chứng khoán nói chung mà chỉ qui định về phát hành, chào bán chứng khoán ra công chúng.

Việc phát hành chứng khoán ra công chúng phải chịu sự chi phối của pháp luật về chứng khoán và phải được cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán cấp phép. Những công ty phát hành chứng khoán ra công chúng phải thực hiện một chế độ báo cáo, công bố thông tin công khai và

chịu sự giám sát riêng theo qui định của pháp luật chứng khoán. Hoạt động này được điều chỉnh bởi Luật Chứng khoán và Nghị định 14/2007/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 19/01/2007. Còn hoạt động phát hành riêng lẻ chưa được quản lý bằng qui định pháp luật. Hiện nay, Chính phủ đang xây dựng dự thảo về nghị định về chào bán cổ phần riêng lẻ.

Mục đích của việc phân biệt hai hình thức phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng như trên là nhằm có các biện pháp bảo vệ công chúng đầu tư, nhất là những NĐT nhỏ không hiểu biết nhiều về lĩnh vực chứng khoán. Nhằm mục đích này, để được phép phát hành ra công chúng, tổ chức phát hành phải là những công ty làm ăn có chất lượng cao, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đáp ứng được các điều kiện do UBCKNN qui định.

Việc phát hàng chứng khoán là quyền của doanh nghiệp theo qui định của Luật Doanh nghiệp và theo ý chí của cổ đông đã được đưa ra trong nghị quyết của Đại hội cổ đông. Còn UBCKNN chỉ là cơ quan thực hiện thẩm định hồ sơ phát hành theo qui định của Luật Chứng khoán chứ không có quyền cấm hay hạn chế doanh nghiệp pháp hành. Về cơ bản, các qui định pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng khá thông thoáng, theo hướng tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp trên cơ sở công bố thông tin đầy đủ.

Là cơ quan xây dựng và quản lý thị trường chứng khoán, UBCKNN đã nỗ lực tối đa trong việc thẩm định chặt chẽ các hồ sơ đăng ký chào bán. Các doanh nghiệp có nhu cầu phát hành phải nộp hồ sơ đầy đủ cho UBCKNN. Nếu phương án phát hành của doanh nghiệp được cổ đông thông qua đúng luật và doanh nghiệp có đủ hồ sơ hợp pháp thì UBCKNN căn cứ vào quy định của pháp luật phải thực hiện cấp giấy chứng nhận chào bán ra công chúng mà không thể từ chối, mặc dù nhận thấy phương án phát hành khiến giá cổ phiếu bị pha loãng và có thể ảnh hưởng đến lợi ích lâu dài của doanh nghiệp và cổ đông nói chung. UBCKNN không có quyền yêu cầu doanh nghiệp sửa đổi

phương án phát hành và sử dụng vốn mà chỉ có thể yêu cầu doanh nghiệp nêu rõ những rủi ro liên quan đến đợt phát hành trong bản cáo bạch.

Trong thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ trình Chính phủ ban hành nghị định về chào bán riêng lẻ, sửa đổi một số văn bản có liên quan đến việc quản lý phát hành.‌


1.2. KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN CHƯA

NIÊM YẾT


1.2.1. Khái niệm, lược sử và đặc điểm thị trường chứng khoán chưa niêm yết

TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính mà tại đó diễn ra việc mua bán các công cụ tài chính dài hạn.

Các TTGDCK, SGDCK là nơi diễn ra hoạt động giao dịch chứng khoán đã đủ điều kiện niêm yết. Các CKCNY trên TTGDCK, SGDCK được giao dịch trên thị trường phi tập trung hay còn gọi là TTCKCNY.

TTCKCNY, tiếng Anh là Over-The-Counter Market gọi tắt là thị trường OTC. Thị trường này được tổ chức theo hình thức mua bán thỏa thuận giá giữa người đầu tư và công ty chứng khoán, hoặc giữa công ty chứng khoán với nhau. OTC là một loại thị trường chứng khoán xuất hiện sớm nhất trong lịch sử và tiếp tục tồn tại và phát triển đến ngày nay.

Theo tiến trình lịch sử, có thể phân chia sự phát triển của thị trường thành ba giai đoạn sau:

- Thời kỳ sơ khai ban đầu (thế kỷ 15): thị trường OTC là nơi người mua và người bán gặp gỡ trực tiếp để giao dịch chứng khoán, thị trường có thể là một địa điểm nào đó như quán cà phê.

Nghĩa tiếng Anh của từ over - the - counter nghĩa là thị trường qua quầy và đây là một đặc điểm mang tính lịch sử của thị trường khi chứng

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 25/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí