Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam - 12

nhỏ nữa là về cách gọi “người tập sự hành nghề luật sư” hay “luật sư tập sự” về bản chất hai cách gọi này là giống nhau và ai cũng có thể hiểu được ý nghĩa của các thuật ngữ đó nên việc nhiều lần sửa đổi luật về việc thay đổi các thuật ngữ này là không cần thiết.

Sau quá trình đào tạo và tập sự hành nghề luật sư thì việc tham gia kỳ thi để được công nhận luật sư là cần thiết. Ở Việt Nam kỳ thi này tên là Kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư. Những người vượt qua kỳ thi này sẽ được chính thức công nhận là luật sư. Tuy nhiên tiêu cực trong thi cử là điều khiến nhiều nhà chức trách ở Việt Nam đau đầu tìm cách khắc phục nhưng chưa thành công. Theo em, để hạn chế điều này cần giáo dục tinh thần trung thực trong thi cử ngay từ những bậc học đầu tiên. Các thầy cô giáo và các phụ huynh cũng phải làm gương cho con em mình. Các nhà lãnh đạo phải quan tâm cơ sở vật chất và môi trường học đường lành mạnh giữa các trường, các lớp để hạn chế và đi đến xoá bỏ tình trạng chạy trường, chạy lớp, chạy điểm.Những người vượt qua kỳ thi này sẽ được cấp “Giấy chứng nhận kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư”. Sau khi có Giấy chứng nhận kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư, người đó lại phải nộp hồ sơ để được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư. Không cần thiết phải tách hai loại giấy tờ này mà nên gộp thành một loại “Chứng chỉ hành nghề luật sư” để đơn giản hoá các thủ tục hành chính. Chứng chỉ hành nghề luật sư chính là giấy tờ chứng minh người có đủ tư cách hành nghề. Không nên quy định phải có Thẻ luật sư mới được hành nghề luật sư vì thẻ luật sư chỉ giống như một thẻ hội viên khi luật sư tham gia vào hội đó. Logic từ đó thì việc luật sư gia nhập đoàn luật sư cũng là không bắt buộc. Tuy nhiên luật sư là những người đủ kiến thức để hiểu được những lợi ích và bất lợi của việc gia nhập đoàn luật sư để tự mình quyết định việc có gia nhập đoàn hay không. Cùng với việc gia nhập đoàn thì phí gia nhập cũng là một vấn đề có nhiều ý kiến tranh cãi. Các đoàn luật sư nên đưa ra một mức phí phù hợp để không gây khó khăn cho các luật sư trong quá trình gia nhập đoàn.

Thứ ba, hành nghề luật sư được điều chỉnh bởi luật dân sự, thương mại. Do đó để hoàn thiện pháp luật về hành nghề luật sư cũng cần đặc biệt chú ý tới việc hoàn thiện các chế định liên quan được quy định trong Bộ luật dân sự và luật thương mại.

Một là: BLDS cần mở rộng nội hàm của khái niệm hợp đồng bằng cách bỏ cụm từ “dân sự” trong khái niệm Hợp đồng dân sự để bao quát hết được các loại hợp đồng thuộc nội hàm khái niệm này. Hiện nay các chủ thể hợp đồng trong lĩnh vực lao động và thương mại đặc biệt là chủ thể hợp đồng dịch vụ pháp lý hoặc là không áp dụng hoặc là áp dụng tùy tiện các quy định về hợp đồng của Bộ luật dân sự vào Hợp đồng lao động và Hợp đồng thường mại. Chủ thể hợp đồng dịch vụ pháp lý, các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan tài phán và các đối tượng có liên quan gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc áp d ụng các quy định của Bộ luật dân sự vào

quan hệ Hợp đồng dịch vụ pháp lý. Để khắc phục điều này, chúng tôi đồng nhất quan

điểm trong Bộ luật dân sự (sửa đổi) nên sử dụng thuật ngữ hợp đồng thay cho thuật ngữ hợp đồng dân sự.

Hai là: Bộ luật dân sự cần mở rộng phạm vi hình thức hợp đồng. Trong những năm gần đây, công nghệ thông tin và thương mại điện tử đã trở thành phương thức kinh doanh của doanh nghiệp và phương tiện ứng dụng hữu ích trong đời sống dân sự của người tiêu dùng. Đặc biệt với sự ra đời của Luật Giao dịch điện tử 2005 và Luật mẫu về thương mại điện tử năm 2010 của UNCITRAL, thì việc Bộ luật dân sự 2005 chưa có quy định về hình thức hợp đồng dưới dạng thông điệp dữ liệu là một tồn tại không đáng có. Vì thế, cần nhanh chóng bổ sung hình thức thông điệp dữ liệu vào các hình thức của hợp đồng trong Bộ luật dân sự (sửa đổi), nhằm tạo sự chủ động cho chủ thể hợp đồng trong việc lựa chọn hình thức pháp lý của hợp đồng dịch vụ pháp lý

Ba là: Hoàn thiện chế định đại diện trong Bộ luật dân sự. Điều 91 Bộ luật dân sự về đại diện của pháp nhân, đã ghi nhận đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân. Xem xét vấn đề này trong quy định của Luật thương mại 2005 và các luật chuyên ngành về hành nghề luật sư thì thấy: luật thương mại 2005, quy định một bên chủ thể hoạt động thương mại bắt buộc phải là thương nhân (gồm doanh nghiệp và cá nhân có đăng ký kinh doanh); Luật luật sư 2006 quy định văn phòng luật sư hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân, trưởng văn phòng luật sư là người

đại diện theo pháp luật của văn phòng luật sư. Tuy nhiên, văn phòng luật sư không có tư cách pháp nhân vì theo quy định của luật doanh nghiệp 2005, doanh nghiệp tư nhân không đủ điều kiện để được công nhận là pháp nhân. Như vậy, việc luật luật sư quy định trưởng văn phòng luật sư là người đại diện của văn phòng luật sư như trên dường như mâu thuẫn với quy định của Bộ luật dân sự. Vì vậy, nên sửa đổi Điều 91 Bộ luật dân sự theo hướng sửa cụm từ “pháp nhân” thành “tổ chức” thì sẽ bao quát hết được các trường hợp liên quan đến người đại diện. Bởi lẽ, nhiều tổ chức không phải là phải pháp nhân nhưng vẫn là chủ thể pháp lý độc lập và là chủ thể kinh doanh độc lập, có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và có thể trở thành chủ thể quan hệ hoạt động thương mại hành nghề luật sư và người đại diện của “tổ chức” sẽ không bị ràng buộc bởi điều kiện tổ chức đó có phải là pháp nhân hay không.

Bốn là: Hoàn thiện các quy định về hợp đồng dịch vụ trong luật thương mại 2005 nói chung và hợp đồng dịch vụ pháp lý nói riêng cần bổ sung , hoàn thiện các quy định về các vấn đề : Mẫu hợp đồng dic̣ h vu ̣thương mại ; Chủ thể hợp đồng dịch vụ thương mại; iii) Người đại diện ký kết hợp đồng dịch vụ thương mại; iv) Hình thức thông điệp dữ liệu của hợp đồng dịch vụ thương mại; v) Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng dịch vụ thương mại; iv) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng của nhà cung cấp hợp đồng dịch vụ thương mại v) Quyền và nghĩa vụ đặc thù của nhà cung cấp hợp đồng dịch vụ thương mại, như quyền ngừng cung cấp dịch vụ , nghĩa vụ đăng ký và đảm bảo chất lượng dịch vụ , nghĩa vụ cung cấp và giữ gìn bí mâṭ thông tin trong và sau quá trình cung cấp dịch vụ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Thứ tư, trong quá trình hành nghề của luật sư, cũng cần sửa đổi một số quy

định của pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư thể hiện đầy đủ vai trò của mình. Đầu tiên là quy định về giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư. Trong thực tiễn, có rất nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề có nên bỏ Giấy Giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư hay không. Theo em, bỏ quy định cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư là hợp lý bởi lẽ trong tố tụng hình sự “Đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” là một trong những nguyên tắc cơ bản. Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo

Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam - 12

có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa…” [35]. Theo đó, bản thân người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tự bào chữa hay nhờ luật sư bào chữa chỉ là hình thức thể hiện của quyền công dân. Do đó, khi luật sư được nhờ thì chỉ cần ý kiến của bị can, người thân thích của bị can là xong, không cần phải cơ quan tố tụng cấp giấy mới được bào chữa. Trong tố tụng dân sự , cũng chỉ cần có ý kiến của các đương sự thể hiện ý chí muốn nhờ luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình không cần cơ quan tố tụng phải cấp giấy. Việc này vừa đảm bảo cho hoạt động của luật sư được thuận tiện, tránh những khó khăn, vướng mắc theo thủ tục “xin – cho” mà các luật sư gặp phải, vừa đảm bảo cho quyền bào chữa của người bị tạm giữ, của bị can, bị cáo và các đương sự được đi vào thực tế cuộc sống theo đúng quy định của pháp luật.

Trong trường hợp vì lý do nào đó mà vẫn giữ nguyên quy định về việc cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng thì cần mở rộng đối tượng được mời người bào chữa trong tố tụng hình sự. Phải có quy định cụ thể người có quyền yêu cầu luật sư bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không chỉ có bản thân người đó mà còn là những người thân thích của họ cũng được quyền này (người thân thích có thể được liệt kê cụ thể). Đồng thời, cũng cần quy định rút ngắn thời gian cấp giấy chứng nhận bào chữa xuống còn 01 ngày. Thêm vào đó cần quy định chế tài đối với người có thẩm quyền khi có những sai phạm, hành vi gây khó dễ trong việc cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng và quy định buộc phải cấp giấy biên nhận khi nhận hồ sơ của luật sư yêu cầu cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng.

Sửa đổi và bổ sung một số quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự về tư cách tham gia tố tụng của luật sư, thời điểm tham gia bào chữa, việc tiếp xúc bị can, bị cáo trong trại tạm giam, quyền điều tra và thu thập chứng cứ, cũng như một số hoạt động nghề nghiệp khác của luật sư; hoàn thiện quy định để từng bước mở rộng tranh tụng tại phiên tòa…Cụ thể nên có một số sửa đổi như sau: Kể từ thời điểm cơ quan tiến hành tố tụng nhận được yêu cầu của luật sư đề nghị được gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì cơ quan tiến hành tố tụng phải thu xếp để luật sư được gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Nên hủy bỏ quy định hạn chế thời gian tiếp xúc người bị tạm giữ, bị can của luật sư. Quy định này là không hợp lý, vì không thể

giới hạn thời gian làm việc của Luật sư trong thời gian hẹp như vậy. Quy định này nên sửa đổi theo hướng Luật sư được phép gặp mặt người bị tạm giữ, bị can trong giờ hành chính. Cần quy định việc Điều tra viên chỉ được tiến hành lấy lời khai của người bị tạm giữ, bị can khi có mặt luật sư; trừ trường hợp luật sư từ chối tham gia; hoặc khi người bị tạm giữ, bị can từ chối luật sư. Cần quy định bắt buộc Điều tra viên phải thông báo rõ bằng văn bản nội dung, địa điểm, thời gian tiến hành hỏi cung bị can để luật sư có thể tham gia hỏi cung bị can. Thời gian thông báo trước phải phù hợp để luật sư có thể kịp thời tham gia. Nếu hoãn cuộc hỏi cung thì phải ngay lập tức thông báo với luật sư. Nên quy định theo hướng trong quá trình luật sư tham gia hỏi người bị tạm giữ, hỏi cung bị can, luật sư có quyền tự do hỏi người bị tạm giữ, bị can các câu hỏi liên quan. Cán bộ điều tra chỉ được từ chối những câu hỏi của luật sư không liên quan tới vụ án, có mục đích khác. Việc hỏi của luật sư phải được lập thành biên bản nêu rõ câu hỏi, câu trả lời, những câu hỏi bị điều tra viên từ chối, lý do từ chối. Nên quy định thêm: trong buổi hỏi cung, Luật sư có quyền giải thích về mặt pháp luật và lưu ý bị can về quyền trả lời hoặc không trả lời về một vấn đề mà Điều tra viên hỏi; phản đối câu hỏi của Điều tra viên mang tính chất mớm cung, bức cung; xem xét và có ý kiến về nội dung biên bản hỏi cung ghi có đúng với nội dung trả lời của người bị tạm giữ, bị can; xác định tinh thần, sức khỏe và tâm thần của người bị tạm giữ, bị can khi hỏi cung,…Cần quy định rõ trách nhiệm pháp lý của cơ quan điều tra khi có những hành vi vi phạm nhằm gây khó dễ cho luật sư tham gia vụ án trong giai đoạn này. Xây dựng điều khoản mới về tội danh xâm phạm quyền bào chữa và nhờ người khác bào chữa của công dân trong Bộ luật hình sự.

Tiếp cận hồ sơ vụ án là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm cho vụ án được xét xử khách quan, bảo đảm cho hoạt động của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ được thuận lợi và tốt nhất. Tuy nhiên, vấn đề tiếp cận hồ sơ của luật sư lại rất khó khăn. Do đó, để bảo đảm cho việc thực hiện quyền của luật sư khi tiếp cận hồ sơ vụ án thì các cơ quan chức năng cần xem xét một số đề nghị sau: Cần quy định rõ người có thẩm quyền giải quyết đề nghị của luật sư về việc tiếp cận hồ sơ vụ án, thời gian để giải quyết đề nghị này. Luật sư cần

được thông báo việc trưng cầu và kết quả giám định (giám định chữ viết, thương tật, thiệt hại tài sản, vật chứng,…), cần được mời tham gia việc khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra (trong một số vụ án hình sự như giết người, cố ý gây thương tích….), được thông báo thành phần và kết quả giám định pháp y. Cần phải mở rộng quyền thu thập chứng cứ của luật sư như yêu cầu các cơ quan, cá nhân có trách nhiệm đáp ứng các yêu cầu về thu thập và xác minh chứng cứ hợp pháp và chính đáng của luật sư. Việc lấy lời khai của luật sư đối với các đối tượng có liên quan đến vụ án cần được bảo đảm các thủ tục chứng thực việc lấy lời khai là hợp pháp. Luật sư có quyền cung cấp chứng cứ cho Cơ quan tiến hành tố tụng và được lập biên bản ghi nhận về việc cung cấp các chứng cứ này. Luật sư không bị xem xét trách nhiệm liên quan việc cung cấp các chứng cứ, tài liệu cho các cơ quan tiến hành tố tụng nếu việc cung cấp đó được tiến hành công khai, hợp pháp, trừ trường hợp Luật sư cố tình tạo ra hoặc biết rõ chứng cứ, tài liệu là giả mạo. Mở rộng cho luật sư quyền tiếp cận hồ sơ vụ án, trừ những tài liệu thuộc bí mật công tác. Đồng thời, quy định trách nhiệm của luật sư trong việc tiếp cận hồ sơ vụ án, giữ bí mật hồ sơ vụ án.

Việc bảo đảm quyền bào chữa, bảo vệ thân chủ của Luật sư trong giai đoạn xét xử tại toà án không chỉ ảnh hưởng lớn đến việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, quyền hành nghề của luật sư, mà còn ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án, khả năng tiếp cận công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp. Do đó, để tăng cường trách nhiệm của cả cơ quan tiến hành tố tụng và luật sư trong việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa, em có một số kiến nghị như sau: Sửa lại câu chữ trong quy định tại điều 58, điều 59, điều 34 Bộ luật tố tụng hình sự cho phù hợp và thống nhất với nhau về vấn đề quyền được yêu cầu thay đổi những người tiến hành tố tụng, quyền được xem biên bản phiên toà. Bộ luật Tố tụng hình sự cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà, luật sư hỏi là chính và Hội đồng xét xử cần đóng vai trò trọng tài, phân xử sau khi đã nghe viện kiểm sát và luật sư tranh tụng với nhau. Điều 218 Bộ luật tố tụng hình sự quy định chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia

tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt ngang những ý kiến không có liên quan đến vụ án. Tuy nhiên, khái niệm “không có liên quan đến vụ án” chưa được pháp luật quy định và trên thực tế nó được thẩm phán chủ tọa phiên tòa “quy định”. Vì thế tại phiên tòa, khi luật sư đang bào chữa hoặc trình bày quan điểm bảo vệ khách hàng, thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền cắt ngang bất kỳ lúc nào mà không cần giải thích lý do hoặc đưa ra những lý do thiếu cơ sở kiểu : “lời bào chữa của luật sư dài dòng”, “luật sư không đi vào vấn đề chính”, “ở đây (ý nói tại phiên tòa) không phân tích luật”?!... Vì thế, cần bỏ từ “cắt” thay bằng cụm từ “nhắc nhở” tại Điều 218 Bộ luật tố tụng hình sự vì nếu quy định như cũ thì đã vô hình trao cho thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyền đứng trên pháp luật.Thực tế hiện nay, chất lượng và kết quả tranh tụng bị hạn chế và chưa hình thành được cơ chế và khuôn khổ pháp lý cho việc đảm bảo phán quyết của tòa án phải xuất phát từ kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

Thông qua tranh tụng tại phiên toà, các vấn đề mới được cọ xát và được làm sáng tỏ. Hội đồng xét xử đóng vai trò tích cực trong việc điều khiển phiên toà, có tác động để quá trình tranh tụng đạt được kết quả cao. Tuy nhiên muốn bảo đảm tranh tụng dân chủ, công khai trong phiên toà cũng như nâng cao vai trò của luật sư trong hoạt động tranh tụng đòi hỏi phải bổ sung, hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của cơ quan tư pháp và luật sư theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ các từng cơ quan đồng thời xác định rõ vị trí của luật sư trong hoạt động tư pháp.

Thứ năm, về quy định chấm dứt hoạt động hành nghề luật sư. Chấm dứt hoạt động hành nghề luật sư đồng nghĩa với việc quyền và nghĩa vụ liên quan đến hoạt động hành nghề luật sư của tổ chức, cá nhân luật sư đó cũng chấm dứt. Để dung hoà được với quyền lợi của những người có liên quan tới tổ chức, cá nhân hành nghề luật sư đó, pháp luật cần có quy định hợp lý về việc kế thừa hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ đó. Về vấn đề này, em xin có một số kiến nghị nhỏ như sau: Về quy định chuyển đổi loại hình tổ chức hành nghề luật sư, theo em trong quá trình hoàn thành các thủ tục pháp lý để hình thành tổ chức mới thì chưa nên chấm dứt hoạt động của tổ chức cũ để tránh gián đoạn trong quá trình hoạt động của tổ chức và

đảm bảo được quyền lợi của khách hàng trong giai đoạn này. Ngay khi tổ chức mới được cấp Giấy đăng ký hoạt động thì tổ chức cũ đương nhiên chấm dứt hoạt động (dù chưa bị thu hồi Giấy đăng ký hoạt động) và tổ chức mới sẽ kế thừa toàn bộ quyền và nghĩa vụ của tổ chức cũ. Về điều 47 Luật luật sư, nên bổ sung một phần quy định về các trường hợp thu hồi giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư. Theo đó Giấy đăng ký hoạt động sẽ bị thu hồi trong các trương hợp sau: tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư chấm dứt hoạt động theo quy định tại khoản 1 điều 47 của luật luật sư; và trường hợp tổ chức hành nghề luật sư tạm ngừng hoạt động theo quy định tại điều 46 của luật này đã quá thời hạn mà không có báo cáo về việc gia hạn tạm ngừng hoạt động. Khi thu hồi Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư, Sở Tư pháp nơi đăng ký hoạt động ra quyết định thu hồi Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư hoặc chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư và gửi cho Đoàn Luật sư, cơ quan thuế nơi đăng ký hoạt động. Về thời hạn mà pháp luật yêu cầu thực hiện việc giải thể, luật luật sư có quy định không thống nhất với luật doanh nghiệp 2005. Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định Thời gian giải thể đủ dài (sáu tháng) để hoàn tất các thủ tục hành chính về thuế (trong khi Luật Luật sư chỉ cho 60 ngày); ngoài ra luật doanh nghiệp còn quy định Trách nhiệm liên đới của các thành viên chủ sở hữu doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp bị giải thể. Nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật và đảm bảo được những quyền, lợi ích hợp pháp của những khách hàng sử dụng dịch vụ pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Trong trường hợp chấm dứt hoạt động theo quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 47 Luật luật sư thì trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày thu hồi Giấy đăng ký hoạt động, Sở Tư pháp có trách nhiệm thông báo bằng văn bản với Đoàn Luật sư, cơ quan thuế ở địa phương nơi đăng ký hoạt động và nơi có trụ sở của chi nhánh về việc thu hồi Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư. Trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày bị thu hồi Giấy đăng ký hoạt động, tổ chức hành nghề luật sư phải nộp đủ số thuế còn nợ; thanh toán xong các khoản nợ khác; làm xong thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động đã ký với luật sư, nhân viên của tổ chức

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 18/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí