hành nghề luật sư; đối với hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký với khách hàng nhưng chưa thực hiện xong thì phải thoả thuận với khách hàng về việc thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý đó. Sau thời hạn sáu tháng quy định tại khoản này mà Sở Tư pháp không nhận được hồ sơ giải thể tổ chức hành nghề luật sư thì tổ chức hành nghề luật sư đó coi như đã được giải thể và Sở Tư pháp xoá tên tổ chức hành nghề luật sư trong sổ đăng ký hoạt động. Trong trường hợp này, trưởng văn phòng luật sư, giám đốc công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc tất cả các thành viên của công ty luật hợp danh, thành viên của công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ, các nghĩa vụ tài sản khác chưa thanh toán và các nghĩa vụ phải thực hiện trong hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký với khách hàng. Và cũng để thống nhất với luật doanh nghiệp và phù hợp với thực tế, Luật luật sư cần có quy định về các hành vi bị cấm kể từ khi chấm dứt hoạt động. Kể từ khi chấm dứt hoạt động theo khoản 1 Điều 47 của Luật này, nghiêm cấm tổ chức hành nghề luật sư, người quản lý tổ chức hành nghề luật sư thực hiện các hành vi sau đây: Cất giấu, tẩu tán tài sản; Từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ; Chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành các khoản nợ có bảo đảm bằng tài sản của tổ chức hành nghề luật sư; Ký kết hợp đồng mới không phải là hợp đồng nhằm thực hiện giải thể tổ chức hành nghề luật sư; Cầm cố, thế chấp, tặng cho, cho thuê tài sản.
Thứ sáu, để bảo vệ luật sư và đảm bảo cho quá trình hành nghề của luật sư, trong Bộ luật hình sự nên xây dựng điều khoản mới về tội danh xâm phạm quyền bào chữa và nhờ người khác bào chữa của công dân.
Thứ bảy, liên quan hoạt động tư vấn pháp luật và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác, pháp luật về luật sư cần tập trung vào hai phạm vi là nhất thể hóa hoạt động tư vấn pháp luật vào đối tượng hành nghề chuyên nghiệp là đội ngũ luật sư và thể chế hóa phương hướng tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động luật sư, xây dựng cơ chế pháp lý cho việc tham gia ngày càng nhiều hơn của luật sư trong đàm phán thương mại quốc tế, giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài, tạo môi trường cạnh tranh dịch vụ pháp lý lành mạnh trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc bình đẳng và chủ quyền.
3.2.2 Giải pháp hành pháp
Quyền hành pháp do các cơ quan hành chính Nhà nước thực thi để đảm bảo hoàn thành chức năng và nhiệm vụ của mình. Giải pháp hành pháp nói đến ở đây là một số kiến nghị các giải pháp liên quan đến việc ban hành những văn bản pháp qui dưới luật, để cụ thể hoá luật pháp do các cơ quan lập pháp ban hành về hành nghề luật sư và sử dụng quyền lực nhà nước để tổ chức quản lý các mặt, các quan hệ xã hội liên quan đến hành nghề luật sư.
Việc ban hành các văn bản pháp quy dưới luật để cụ thể hóa luật pháp là vô cùng cần thiết. Hành nghề luật sư sử dụng công cụ là pháp luật, hành nghề liên quan đến pháp luật nên việc cụ thể hóa các quy định của pháp luật liên quan đến hành nghề luật sư càng trở nên cấp thiết. Để luật luật sư phát huy được hết vai trò của nó trong thực tiễn thì các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật luật sư cần phải được sửa đổi một số nội dung sau:
Sửa đổi Quy chế tập sự hành nghề luật sư theo hướng cho phép người tập sự hành nghề luật sư được thực hiện một số công việc của luật sư chính thức như được tham gia tố tụng ở cấp sơ thẩm và một số giai đoạn trước khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sư như khởi tố, điều tra, truy tố. Sửa đổi theo hướng này để giúp cho người tập sự hành nghề luật sư được tiếp xúc và thực hành một số kỹ năng cần thiết mà họ cần có khi trở thành một luật sư chính thức. Để chặt chẽ hơn, có thể quy định, người tập sự hành nghề luật sư thực hiện các công việc này cùng với luật sư hướng dẫn hoặc nhân danh luật sư hướng dẫn.
Thủ tục hành chính để được công nhận luật sư là cần thiết, tuy nhiên cần đơn giản hóa các thủ tục này. Không cần thiết phải cấp hai loại giấy “Giấy chứng nhận kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư” và “chứng chỉ hành nghề luật sư”. Thêm vào đó cũng cần xem xét việc luật sư được hành nghề khi được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư hay chỉ khi được cấp Thẻ luật sư mới được hành nghề. Các đoàn luật sư cũng cần xem xét phí gia nhập đoàn và phí thường niên của đoàn để sao cho có mức đóng phù hợp với các luật sư thành viên.
Trong quá trình hoạt động hành nghề của luật sư, cũng cần bổ sung các quy định rõ về quyền của luật sư để tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư thực hiện tốt
công việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ mình. Luật sư phải được quyền thu thập thông tin, tài liệu, chứng cứ tại các cơ quan, tổ chức và các cơ quan, tổ chức này phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ cho luật sư khi nhận được yêu cầu hợp pháp của luật sư. Việc thu thập thông tin này của luật sư hiện tại gặp rất nhiều khó khăn bởi sự không hợp tác của các cơ quan, tổ chức, đặc biệt là các cơ quan hành chính nhà nước. Ví dụ: luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trong một vụ án về tranh chấp quyền sử dụng đất. Luật sư đề nghị văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cung cấp thông tin về mảnh đất nhưng không được văn phòng lưu ý tới. Điều này khiến cho luật sư không có được những thông tin trung thực và đầy đủ để thực hiện vai trò của mình. Và nếu Tòa án cũng không thu thập những thông tin đó mà chỉ dựa vào các chứng cứ mà hai bên đương sự xuất trình thì có thể dẫn đến việc giải quyết vụ án đi ngược hẳn với bản chất của vụ việc. Do đó cần có văn bản quy định rõ luật sư được quyền thu thập các thông tin đó và văn phòng phải có nghĩa vụ cung cấp cho luật sư.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Tiễn Áp Dụng Pháp Luật Về Hành Nghề Luật Sư:
- Nguyên Nhân Khiếm Khuyết Của Pháp Luật Về Hành Nghề Luật Sư:
- Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam - 12
- Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam - 14
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
Khi thu thập được thông tin, tài liệu, chứng cứ có giá trị thì các cơ quan giải quyết vụ việc cũng phải lấy đó làm một căn cứ để quyết định hướng giải quyết. Để làm được điều này thì cần thêm các quy định của pháp luật về giá trị của những chứng cứ mà luật sư cung cấp.Hiện nay, phá luật đã cho phép thành lập thêm nhiều văn phòng thừa phát lại ở các thành phố lớn và có văn bản quy định về việc sử dụng các chứng cứ mà văn phòng thừa phát lại cung cấp. Đây cũng là một kênh trợ lực cho các tổ chức hành nghề luật sư trong quá trình cung cấp dịch vụ pháp lý tới khách hàng.
Các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các bộ luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính cũng cần bổ sung các quy định về quyền của luật sư trong việc thu thập và sử dụng chứng cứ, quyền tranh tụng tại phiên tòa. Đặc biệt liên quan tới tố tụng hình sự, cần thiết phải có thêm các quy định để làm rõ quyền của luật sư khi tiếp xúc với bị can, bị cáo, người bị tạm giữ, tạm giam; quyền có mặt khi lấy lời khai, hỏi cung bị can. Luật sư cũng cần phải được tiếp cận hồ sơ vụ án ở tất cả các giai đoạn tố tụng để nắm được một cách đầy đủ các tình tiết trong hồ sơ và có định hướng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ một cách tốt nhất.
Để đảm bảo tính răn đe, cũng nên quy định trách nhiệm pháp lý mà các cá nhân, cơ quan, tổ chức sẽ phải gánh chịu khi không tạo điều kiện để luật sư thực hiện các quyền của mình hoặc có hành vi cản trở luật sư trong quá trình hành nghề.
Về trách nhiệm pháp lý trong quá trình hành nghề luật sư, cần sửa đổi Quy định về xử lý kỷ luật luật sư được ban hành kèm theo Quyết định số 68/QĐ- BTVLĐLSVN ngày 5 tháng 10 năm 2012 để có sự thống nhất áp dụng giữa các đoàn luật sư. Bổ quy định giải thích các cụm từ như “thiệt hại lớn”, “thiệt hại nhỏ”, “thiệt hại không lớn”, “gây ảnh hưởng đặc biệt xấu”. Cũng cần sửa đổi quy định tại điều 17 về việc nhận và xử lý khiếu nại, tố cáo. Nên quy định Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư sau khi nhận được khiếu nại, tố cáo hay phát hiện hành vi vi phạm của luật sư thành viên thì phải chuyển ngay cho Hội đồng khen thưởng, kỷ luật để xác minh, làm rõ và có định hướng giải quyết.
Trong vấn đề trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự của luật sư trong quá trình hành nghề, cần mở rộng việc tuyên truyền pháp luật cho nhân dân, các cấp, các ngành để họ giúp các cơ quan chức năng trong việc phát hiện vi phạm của luật sư. Việc tuyền truyền pháp luật cũng là một lời răn đe, hạn chế việc vi phạm pháp luật của việc hành nghề luật sư.
Đối với quy chế về tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, cần bổ sung thêm quy định mở rộng thẩm quyền của luật sư Việt Nam hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài theo hướng cho phép luật sư Việt Nam hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài được quyền tham gia tố tụng tại Toà án Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ giới hạn không cho tham gia tố tụng đối với luật sư nước ngoài hơn là đối với luật sư Việt Nam hoặc chỉ giới hạn ở vụ án hình sự mang tính chất nhạy cảm hoặc liên quan nhiều đến lợi ích công cộng. Đối với các vụ án hình sự khác hay dân sự, kinh tế thuần túy cần cho phép luật sư Việt Nam được tham gia tố tụng tại Toà án Việt Nam.
Trong việc tổ chức quản lý các mặt, các quan hệ xã hội liên quan đến hành nghề luật sư cần xây dựng một bộ máy hành chính trong sạch và hiệu quả. Nhân sự trong bộ máy này phải là những người giỏi về chuyên môn, có đạo đức, giải quyết
nhanh chóng, đúng quy định các thủ tục hành chính liên quan đến hành nghề luật sư như đăng ký hoạt động, thay đổi đăng ký hoạt động, chấm dứt hoạt động.....
Liên quan tới vấn đề quản lý việc hành nghề luật sư, các đoàn luật sư và liên đoàn luật sư Việt Nam cũng cần quan tâm hơn nữa tới các luật sư thành viên. Lắng nghe các trao đổi, góp ý của các luật sư để có biện pháp giúp đỡ, tạo điều kiện cho các luật sư trong quá trình hành nghề. Tăng cường công tác học tập, bồi dưỡng quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư, nghiệp vụ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp luật sư; tăng cường các hoạt động truyền thông, quảng bá về hình ảnh của luật sư, nghề luật sư về những đóng góp của luật sư trong công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền. Đồng thời có biện pháp quản lý chặt chẽ hơn nữa để ngăn ngừa và xử lý những luật sư có hành vi vi phạm pháp luật và điều lệ của Đoàn luật sư, Liên đoàn luật sư Việt Nam. Đoàn Luật sư và Liên đoàn luật sư Việt Nam phải thường xuyên làm việc với các cơ quan tố tụng và các cơ quan khác để có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan đó cùng với các luật sư trong quá trình luật sư hành nghề. Tham gia tích cực hơn nữa vào nhiệm vụ xây dựng, sửa đổi bổ sung hệ thống pháp luật của nhà nước. Bên cạnh đó cũng phải mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế để nâng cao kỹ năng của các luật sư đồng thời xây dựng hình ảnh luật sư Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế.
3.2.3. Giải pháp tư pháp
Các giải pháp tư pháp ở đây nói tới là các giải pháp đưa ra nhằm bảo vệ pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt nam, đảm bảo cho pháp luật về hành nghề luật sư được thực hiện và chống lại các hành vi vi phạm pháp luật về hành nghề luật sư.
Quyền tư pháp do Tòa án và Viện Kiểm sát tiến hành. Để đảm bảo quyền tư pháp trong lĩnh vực hành nghề luật sư được thực thi một cách đầy đủ thì các cơ quan Tòa án và Viện Kiểm sát phải nắm rõ các quy định của pháp luật về hành nghề luật sư và hết sức tạo điều kiện để luật sư thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật.
Pháp luật về hành nghề luật sư được quy định chủ yếu tại luật luật sư, các bộ luật tố tụng, các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các luật, bộ luật trên. Là cơ quan bảo vệ pháp luật, Tòa án và Viện kiểm sát phải đảm bảo được nhân
sự trong bộ máy của mình phải nắm vững và hiểu đúng các quy định này. Bên cạnh đó, luật sư tham gia tố tụng là để giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một các hợp tình, hợp lý nên các cơ quan tiến hành tố tụng phải hết sức hợp tác với luật sư, tạo điều kiện cho luật sư hành nghề. Từ thủ tục đầu tiên để luật sư tham gia vụ án là thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ án. Tòa án và Viện kiểm sát không được hạch sách, gây khó khăn cho luật sư như yêu cầu thêm các hồ sơ mà luật không quy định hay đưa ra nhiều lý do để từ chối hoặc kéo dài thời gian cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng cho luật sư... mà phải nhanh chóng làm thủ tục cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng để luật sư có căn cứ pháp lý chính thức tham gia giải quyết vụ việc.
Trong quá trình các luật sư tham gia tố tụng, cơ quan Tòa án và Viện kiểm sát phải tạo điều kiện và phối hợp với luật sư trong việc thu thập chứng cứ trong tất cả các vụ án, thu xếp các điều kiện hợp lý để luật sư được tham gia hỏi cung, lấy lời khai của bị can, người bị tạm giữ, tạm giam trong vụ án hình sự. Tòa án, viện kiểm sát phải đáp ứng yêu cầu của luật sư về việc tiếp xúc hồ sơ vụ án mà mình đang thụ lý để luật sư nắm được đầy đủ các tình tiết trong hồ sơ từ đó có định hướng giải quyết vụ án tốt nhất. Các cơ quan Tòa án và Viện kiểm sát phải tôn trọng những chứng cứ mà luật sư cung cấp nếu các chứng cứ đó được cung cấp một cách hợp pháp và coi đó là một căn cứ để giải quyết vụ án. Tại phiên tòa, hội đồng xét xử phải đảm bảo quyền tranh tụng của luật sư, tôn trọng các ý kiến mà luật sư đưa ra, thực hiện các thủ tục phiên tòa đầy đủ, đúng luật, đảm bảo tranh tụng công khai và hiệu quả.
Hiến pháp và luật tổ chức Viện kiểm sát quy định viện kiểm sát là cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Cả hai chức năng này đều liên quan chặt chẽ tới các hoạt động hành nghề của luật sư. Trong hoạt động thực hành quyền công tố, mục đích của Viện kiểm sát và luật sư đều là nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án hình sự có căn cứ và hợp pháp, không làm oan người vô tội và bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, nhiều trường hợp viện kiểm sát và luật sư ở hai phía đối lập nhau như Viện kiểm sát thực hiện chức năng buộc tội còn luật
sư lại thực hiện chức năng gỡ tội. Trong trường hợp này, viện kiểm sát vẫn phải tôn trọng các quyền của luật sư và nhất thiết phải tranh luận đầy đủ, công khai với các ý kiến mà luật sư đưa ra để đảm bảo đạt được mục đích chung. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát còn có một chức năng quan trọng là kiểm sát các hoạt động tư pháp. Chức năng này bao gồm cả việc kiểm tra tính có căn cứ, hợp pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp và thi hành án nhằm phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật trong các hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động hành nghề luật sư nói riêng. Hay nói rõ hơn, Viện kiểm sát cũng là cơ quan kiểm tra, giám sát việc các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện pháp luật về hành nghề luật sư trong các hoạt động tư pháp, đảm bảo luật sư được thực hiện đầy đủ các quyền của mình theo quy định của pháp luật.
Mở rộng thêm về các giải pháp tư pháp, luận văn xin đưa ra một số kiến nghị cải cách ngành tư pháp nói chung để tạo điều kiện cho pháp luật hành nghề luật sư ngày càng đi sâu vào thực tiễn. Ngành tư pháp cần kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác tư pháp trong lĩnh vực hành nghề luật sư, đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, kiểm soát thủ tục hành chính; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, góp phần hữu hiệu cải cách hành chính và nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành nghề luật sư. Ngành tư pháp cũng cần nâng cao chất lượng công tác xây dựng, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật; nâng cao tính hiệu quả, khả thi của các văn bản pháp luật về hành nghề luật sư. Các văn bản pháp luật nói chung và pháp luật về hành nghề luật sư nói riêng có được nhân dân biết đến và thực hiện hay không phụ thuộc rất nhiều vào công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật do đó cần đẩy mạnh và đổi mới công tác phổ biến giáo dục pháp luật; kết hợp có hiệu quả giữa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý, đưa các công tác này đi vào chiều sâu, bám sát nhu cầu xã hội, phù hợp với từng đối tượng. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về tổ chức thi hành pháp luật, từ khâu phổ biến pháp luật đến kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật và kiểm soát thủ tục hành chính; tăng cường năng lực phản ứng chính sách của các cơ quan tư pháp.
Tất cả các giải pháp đã nêu ở trên đều xuất phát từ các quan điểm chủ đạo sau: Một là, thể chế hóa chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, kết hợp giữa quản lý hành chính tư pháp với tăng cường tính tự quản của tổ chức nghề nghiệp luật sư, bảo đảm tranh tụng dân chủ tại phiên tòa, phát triển và kiện toàn đội ngũ luật sư. Hai là, phải tạo được môi trường pháp lý rộng rãi cho tổ chức và hoạt động luật sư phát triển, đáp ứng ngày càng tăng nhu cầu tư vấn pháp luật của nền kinh tế thị trường, phát huy dân chủ, bảo vệ công lý và công bằng xã hội. Ba là, phải hướng đến việc xây dựng chế độ độc quyền cho hoạt động luật sư chuyên nghiệp, xây dựng ngành nghề dịch vụ pháp lý trong nền kinh tế thị trường, lấy nghề luật sư làm trọng tâm, tạo ra định hướng cho sự phát triển của thị trường dịch vụ pháp lý. Bốn là, phải xây dựng được phạm vi và lộ trình hoàn thiện pháp luật về luật sư trong nhiều năm, thiết kế mô hình quản lý luật sư phù hợp đặc điểm của Việt Nam. Năm là, thúc đẩy sự phát triển đồng đều hoạt động luật sư tại các vùng, địa phương trong cả nước, chú trọng một số địa phương đóng vai trò đầu tàu cần phát triển nhanh với quy mô và chất lượng dịch vụ cao, đồng thời chú ý rút ngắn khoảng cách về nhu cầu thụ hưởng dịch vụ pháp lý và mức độ phát triển nghề luật sư ở một số vùng miền núi, dân tộc thiểu số. Sáu là, cần quán triệt đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế và tạo môi trường hợp tác quốc tế trong hoạt động luật sư.
Góp phần hoàn thiện pháp luật về hành nghề luật sư là trách nhiệm của mọi công dân, mọi tổ chức trong xã hội, do đó cần thiết phải có sự phối kết hợp của người dân và các cơ quan hữu quan để xây dựng một môi trường pháp lý thuận lợi để luật sư hành nghề, cùng đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội.
Tóm lại, trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng hệ thống pháp luật về hành nghề luật sư, có sự đối chiếu, so sánh với các quy định của pháp luật nước ngoài và những nội dung về cùng vấn đề Việt Nam cam kết trong các Điều ước quốc tế các quan điểm nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam như: Phải dựa trên quan điểm hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về hành nghề luật sư nói nói riêng; Chú trọng phát triểndịch vụ pháp lý; Xuất phát từ các cam kết của Việt Nam trong các Điều ước quốc tế và hài hòa với pháp luật