Pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay - 19

ra xáo trộn lớn và những hạn chế gặp phải khi hình thành dưới dạng công ty vì lợi nhuận hoặc tổ chức phi lợi nhuận cũng sẽ không ảnh hưởng nhiều đến việc hình thành của và phát triển DNXH.

- Chính sách hỗ trợ và ưu đãi phát triển của Nhà nước đối với doanh nghiệp xã hội Như đã khẳng định trên đây, việc nhà nước ban hành một chính sách khuyến

khích, ưu đã hỗ trợ doanh nghiệp xã hội phát triển là hoàn toàn có ý nghĩa, giá trị tích cực và cần thiết. Dựa trên những nghiên cứu, đánh giá về doanh nghiệp xã hội, những rào cản và thách thức mà doanh nghiệp xã hội phải đối mặt cùng với đặc điểm, thực tiễn phát triển kinh tế nói chung và phát triển doanh nghiệp nói riêng ở Việt Nam, từ đó phân tích những đề xuất chính sách hỗ trợ và ưu đãi phát triển đối với doanh nghiệp xã hội như sau:

Đầu tiên, đối với rào cản vốn của doanh nghiệp xã hội: Vốn là một trong những điều kiện tiên quyết cho quá trình thành lập, hoạt động và phát triển của doanh nghiệp. Với đặc thù tiêu chí mục tiêu xã hội, môi trường của doanh nghiệp xã hội thì việc tiếp cận nguồn vốn có phần khó khăn hơn, cả việc chi trả cho nguồn vốn và duy trì. Vì vậy cần có chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp xã hội về vốn. Có thể tận dụng các quỹ ngoài ngân sách nhà nước phục vụ cho các mục tiêu xã hội, môi trường hỗ trợ những doanh nghiệp xã hội nhất định phù hợp với các tiêu chí đánh giá, giá trị doanh nghiệp, tiềm năng hoạt động phát triển và sử dụng tốt nhất vốn ngân sách để đầu tư. Hay ngân hàng nhà nước mở vốn vay đặc biệt dành cho doanh nghiệp xã hội đáp ứng đủ điều kiện cần thiết. Hay đàm phán, thương lượng với các ngân hàng thương mại giúp hỗ trợ tiếp cận vốn dễ hơn, lãi suất thấp hơn cho các doanh nghiệp xã hội. Hoặc có thể vận động, huy động đầu tư từ các doanh nghiệp khác mong muốn đầu tư, đóng cho xã hội và môi trường nhưng không phải là doanh nghiệp xã hội bằng việc đảm bảo giá trị đầu tư (có ích cho xã hội và môi trường), truyền thông quảng bá cho doanh nghiệp đầu tư để xây dựng hình ảnh.

Thứ hai, về nhân lực. Từ xưa đến nay, con người luôn là vốn quý nhất, là chìa khóa thành công cho mọi sự phát triển. Thực tế đã chứng minh những thành công to lớn nhờ lấy con người làm trọng tâm. Với óc sáng tạo và khả năng tư duy phong phú, phản ứng nhanh, thích ứng với hoàn cảnh, nhận thức và cảm xúc vượt bậc. Máy móc có hiện đại đến đâu nhưng nếu không có con người vận hành thì cũng chỉ là đồ vật vô tri vô giác, và chính máy móc ấy cũng do con người tạo ra. Việc sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực mang yếu tố quyết định đến sự phát triển của công ty. Tuy nhiên, hiện nay các chương trình đào tạo các cấp, đại học và sau đại học vẫn chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của

doanh nghiệp xã hội. Việc làm phù hợp ngành học có ý nghĩa, quyết định lớn tới hiệu quả công việc. Việc được đào tạo lý thuyết từ đó ứng dụng vào thực tế có thể coi là thành công của giáo dục. DNXH cần có một đội ngũ nhân lực vừa có khả năng quản lý thực hiện hoạt động kinh tế, vừa có kiến thức và thêm cả mong muốn đóng góp xã hội và môi trường. Nhìn chung là nhân lực có tư duy đa dạng, tổng hợp và bao quát, lại pha chút đặc trưng xã hội, môi trường. Việc có ngành học đào tạo có ý nghĩa rất lớn với cả doanh nghiệp xã hội và cả người học. Hay có thể mở thêm các lớp, khóa tập huấn chuyên môn nâng cao năng lực quản lý và hoạt động cho nhân lực doanh nghiệp xã hội; tuyên truyền nâng cao nhận thức về giá trị của doanh nghiệp xã hội, giúp những người trẻ, những người với ước mơ khởi nghiệp có thể bắt đầu với doanh nghiệp xã hội. Hay có thể tổ chức các Cuộc thi tìm kiếm sáng kiến DNXH để tìm ra nhân tài và dự án tiềm năng, được tài trợ vốn, khởi nghiệp trong thời gian đầu

Thứ ba, có thể xem xét giao cho doanh nghiệp xã hội các dự án đầu tư công phù hợp với năng lực của doanh nghiệp, đảm bảo đem lại hiệu quả, lợi ích tốt cho cộng đồng, xã hội và môi trường. Đầu tư công vẫn luôn là một vấn đề nóng, vẫn chưa thực sự có hướng giải quyết thỏa đáng. Vốn đầu tư cho dự án công thường lớn nhưng lợi nhuận lại thường thấp và thời gian thu hồi vốn lâu, vì vậy đây không phải là dự án mà các doanh nghiệp mong muốn. Tuy nhiên xây dựng vật chất, cơ sở hạ tầng kĩ thuật, nâng cao chất lượng dịch vụ công là chiến lược hàng đầu của Đảng và nhà nước. Doanh nghiệp xã hội có thể là một lựa chọn tối ưu, trong khi bản thân doanh nghiệp cam kết hoạt động vì mục tiêu xã hội và môi trường- đặc trưng mang tính đặc thù, lại có ít nhất 51% lợi nhuận của doanh nghiệp vậy tại sao không để doanh nghiệp xã hội thực hiện các dự án công? Việc này có thể xem như “một mũi tên trúng hai đích”. Nhà nước vừa giải quyết được bài toán hóc búa “đầu tư công” doanh nghiệp xã hội lại có thể thực hiện được mục tiêu mà mình đã cam kết. Hay có thể thực hiện đấu thầu công khai để các doanh nghiệp xã hội có cơ hội tham gia cung cấp các sản phẩm và dịch vụ công ích như xử lý rác thải, bảo vệ môi trường, giáo dục, y tế cộng đồng, sinh kế bền vững... Thứ tư, tạo ra giá trị và hình ảnh cho doanh nghiệp xã hội, tăng nhận thức về doanh nghiệp xã hội. Cần có những doanh nghiệp xã hội điển hình, đã và đang thành công để làm hình mẫu, động lực xây dựng doanh nghiệp xã hội. Doanh nghiệp xã hội cần được ghi nhận, biểu dương bởi hoạt động của nó- vì xã hội, môi trường từ đó khuyến khích nhân lực tham gia. Có thể thực hiện các biện pháp như: Trao giải thưởng, vinh danh các DNXH thành công và phát triển DNXH ở quy mô lớn; thực hiện các phóng sự, chương trình thực tế về hoạt động của doanh nghiệp xã

hội thành công , tạo ra bài học thực tế trên các kênh truyền hình trung ương, vào các khung giờ vàng.

- Quy định về việc thực hiện Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường

Như hạn chế đã phân tích ở trên, ta có thể thấy, các hoạt động xung quanh việc thực hiện cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường trong quy định của pháp luật, tồn tại hai hạn chế: Một là, đối với DNXH, do gặp khó khăn nên không thể tìm kiếm lợi nhuận, từ đó không có lợi nhuận, dẫn đến việc không thực hiện được mục tiêu xã hội, mà vẫn mong muốn tiếp tục được thực hiện mục tiêu xã hội thì sẽ phải thực hiện như thế nào? Hai là, trong luật chưa có quy định rõ ràng về thời hạn bao lâu thì DNXH bị coi là không thực hiện hoặc không thực hiện đầy đủ cam kết thực hiện mục tiêu xã hội và môi trường.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 187 trang tài liệu này.

Xuất phát từ những hạn chế trên, việc bổ sung các quy định là cần thiết đối với trường hợp DNXH không đủ khả năng thực hiện việc bỏ ra tối thiểu 51% tổng lợi nhuận để thực hiện các mục tiêu xã hội nhưng vẫn mong muốn tiếp tục được thực hiện mục tiêu xã hội và môi trường. Đối với những trường hợp này, pháp luật nên có những quy định mang tính chất “tạo điều kiện” cho các doanh nghiệp xã hội như sau: Thay vì việc chấm dứt “Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường” của DNXH theo điểm c khoản 1 điều 6 nghị định 96/2015/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Doanh nghiệp 2014 thì pháp luật nên quy định cho các doanh nghiệp này một khoảng thời gian hợp lí nhất định để doanh nghiệp có thể khôi phục lại khả năng tài chính, khả năng thanh toán của mình, sau đó sẽ tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội của mình. Nhưng sau khi phục hồi, doanh nghiệp này sẽ phải trích một khoản lợi nhuận lớn hơn theo luật định để thực hiện mục tiêu xã hội tương ứng với khoảng thời gian họ được miễn. Việc mở rộng quy định mang tính chất “tạo điều kiện” cho doanh nghiệp này, sẽ giúp đỡ các DNXH rất nhiều trong giai đoạn khó khăn, doanh nghiệp sẽ loại bỏ được áp lực về lợi nhuận sử dụng thực hiện mục tiêu xã hội, nguy cơ sẽ phải chấm dứt tư cách là DNXH để có thể tập trung xây dựng các phương án, chính sách kinh doanh, vực lại hoạt động kinh doanh, từ đó tiếp tục biến hoạt động kinh doanh thành “công cụ” để thực hiện “mục tiêu xã hội”. Đồng thời, nếu nhà nước ban hành thêm quy định “mang tính chất nhân đạo” này, sẽ giúp cho các DNXH có lòng tin cao hơn vào nhà nước, tạo được sự gắn kết chặt chẽ giữa DNXH với nhà nước và pháp luật, để có thể thật sự biến DNXH trở thành “người đồng hành” cùng chính phủ giải quyết các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, pháp luật cũng nên có quy định về số lần được hưởng quyền này của DNXH, vì nếu để quy định này quá mở, sẽ khiến cho các DNXH lạm dụng quyền lợi này gây ra những hoạt động tiêu cực đối với xã hội,

nền kinh tế và sự khó khăn trong công tác quản lí và giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay - 19

Bên cạnh đó, pháp luật nước ta cũng cần phải quy định rõ ràng hơn về “sau thời gian sau bao lâu” thì DNXH sẽ bị coi là không thực hiện hoặc không thực hiện đầy đủ Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội và môi trường. Và tại thời điểm nào, DNXH sẽ phải chấm dứt Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội và môi trường. Thời hạn mà pháp luật quy định phải là thời gian hợp lí và đảm bảo được các yếu tố sau đây: thời hạn phải đủ để có thể chứng minh rằng DNXH không có khả năng hoặc không sẵn sàng thực hiện Cam kết, thời hạn đó cũng không được quá dài để tránh tình trạng các doanh nghiệp lạm dụng thời gian đó để trục lợi, tẩu tán tài sản, trốn tránh các nghĩa vụ tài chính…

Tóm lại, việc quy định rõ ràng về các vấn đề xung quanh hoạt động thực hiện Cam kết mục tiêu xã hội sẽ giúp các DNXH có cơ hội phát triển hơn nữa. Vì hoạt động DNXH luôn gắn chặt với Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội và môi trường. Doanh nghiệp còn thực hiện Cam kết mục tiêu xã hội, môi trường thì mới có thể coi là doanh nghiệp xã hội. Hay nói cách khác, Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường “còn sống” thì DNXH mới “còn tồn tại”.

- Quy định về nhân lực

DNXH là một mô hình hoạt động rất đặc biệt, nó là một mô hình đòi hỏi người quản lý phải có năng lực cao trong hai mảnh lĩnh vực, đó là điều hành kinh doanh và có tầm nhìn trong việc nhìn nhận, đánh giá và giải quyết các vấn đề xã hội. Phải điều hành, quản lý làm sao để doanh nghiệp sẽ có thể thực hiện tốt được “mục tiêu lợi nhuận”, sau đó, biến mục tiêu lợi nhuận đó trở thành công cụ để có thể thực hiện tốt nhất “mục tiêu xã hội”- sứ mệnh của DNXH. Vậy nên, việc pháp luật cần có quy định đối với khả năng đánh giá, nhìn nhận vấn đề xã hội, khả năng thực hiện các công tác xã hội trong các thành phần quản lý doanh nghiệp xã hội là rất cần thiết.

Pháp luật nước ta nên đưa ra các quy định cụ thể về tiêu chuẩn, điều kiện để có thể trở thành giám đốc doanh nghiệp xã hội, đó là ngoài khả năng quản trị kinh doanh, giám đốc doanh nghiệp xã hội còn cần phải có năng lực trong lĩnh vực xã hội và môi trường bằng phương thức chứng minh cụ thể như giấy tờ chứng nhận. Bên cạnh đó, trong cơ cấu tổ chức, đối với mô hình kinh doanh DNXH, cần có thêm quy định, trong ban kiểm soát đối với loại hình công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, cũng rất cần các cá nhân phải có năng lực nhìn nhận, giám sát các vấn đề xã hội này.

- Xây dựng chế tài

Hiện tại, DNXH đã nước ta đã có một số văn bản pháp luật để điều chỉnh hành vi vi phạm như Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, nghị định 75/2019/NĐ-CP Quy định về xử lí vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh, nghị định 129/2013/NĐ- CP quy định chi tiết việc xử lý vi phạm hành chính về thuế… cùng với nhiều văn bản pháp luật khác điều chỉnh hành vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp. Tuy nhiên, bên

cạnh những hành vi vi phạm các quy định về doanh nghiệp với tư cách một DNTT (thuộc một trong 5 loại hình doanh nghiệp) thì DNXH còn có đặc thù là Cam kết xã hội và môi trường”. Vì vậy, pháp luật nước ta, cần xây dựng bổ sung các chế tài dành riêng cho nó:

Đầu tiên, cần phải có các quy định quy định chế tài đối với các hành vi vi phạm của DNXH trong vấn đề tiếp nhận viện trợ, tài trợ của các cá nhân, tổ chức. Nếu như DNXH giải thể, chấm dứt Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường còn dư tài sản, tài chính mà không trả lại tổ chức viện trợ hay không chuyển cho các DNXH, các tổ chức có mục tiêu xã hội tương tự mà chia cho các thành viên thì sẽ xử phạt như thế nào? Hay khi doanh nghiệp nhận viện trợ, tiếp trợ không thông báo hoặc quá 5 ngày mà vẫn không thông báo cho sở kế hoạch và đầu tư nơi doanh nghiệp có trụ sở chính thì sẽ xử lý ra sao? Nếu có những thay đổi trong nội dung văn bản tiếp nhận tài trợ mà doanh nghiệp không thông báo thì sẽ chịu chế tài như thế nào?

Thứ hai, cần phải bổ sung các chế tài rõ ràng đối với các hoạt động liên quan đến cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường vì cam mang tính quyết định đối với một DNXH. Pháp luật cần quy định nếu doanh nghiệp vi phạm trình tự thủ tục đăng ký cam kết sẽ ra sao? Không thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh để công khai trên cổng thông tin quốc gia hay không thực hiện theo mục tiêu cam kết và có những hành vi cố tình che giấu các nội dung, các hoạt động liên quan đến bản cam kết, DNXH không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đủ Cam kết thì bị xử lý như thế nào? Căn cứ nào để xác định? Thời hạn là bao lâu?

Cuối cùng, trong các hoạt động chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, giải thể của DNXH cũng cần các chế tài để hạn chế các hành vi vi phạm như DNXH được chia tách thành các doanh nghiệp không phải DNXH nữa… hay trong vấn đề thực hiện trách nhiệm của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên DNXH cũng rất là cần thiết để hạn chế các hành vi trục lợi cho cá nhân từ DNXH.

- Thành lập một cơ quan chuyên trách về DNXH, gọi là Văn phòng DNXH Việt Nam (Vietnam Social Enterprise Office - VSEO)

Đây chính là giải pháp cốt lõi mà nhóm đề ra để có thể giải quyết các vấn đề về DNXH còn vướng mắc Việt Nam hiện tại. Theo kinh nghiệm của Anh, Cơ quan quản lý CIC đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mô hình CIC, tăng cường tính minh bạch trong hoạt động của các doanh nghiệp này. Cơ quan quản lý CIC không chỉ đóng vai trò “tiền kiểm” trong quá trình đăng ký CIC mà quan trọng hơn là kiểm tra hoạt động của các CIC sau khi đăng ký, đảm bảo họ thực hiện đúng theo những mục tiêu đã đăng ký. Tương tự, ở Thái Lan hay Trung Quốc, mô hình DNXH đạt được những bước phát triển và thành tựu to lớn, một yếu tố quan trọng chính là có được một bộ phận chuyên trách hoạt động cực kì hiệu quả như TSEO (Thái Lan) và Trung tâm từ thiện Quốc gia (Cixi) ở Trung Quốc.

Để xây dựng một văn phòng chuyên trách về DNXH, Việt Nam có rất nhiều lựa chọn. Đầu tiên, dựa trên tính chất đầu mối, đa ngành của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, có thể thành lập một văn phòng chuyên trách về DNXH đặt trong cơ cấu của Cục Phát triển Doanh nghiệp, trực thuộc bộ Kế hoạch đầu tư, gọi là “Văn phòng DNXH Việt Nam”. Thứ hai, có thể thành lập một tổ chức độc lập trong cơ cấu của một Tổ chức chính trị - xã hội của Nhà nước để thực hiện các chương trình hỗ trợ DNXH, đây chính là mô hình mà Thái Lan đã áp dụng (TSEO). Mặc dù việc sử dụng tổ chức độc lập có thể khiến cho các hoạt động được tiến hành nhanh chóng, bớt quan liêu và tinh gọn nhưng truyền thống sử dụng các công cụ là tổ chức trung gian, hỗn hợp ở Việt Nam còn hạn chế và ít đem lại hiệu quả. Nguyên nhân là do vị trí độc lập của tổ chức thường tạo ra các khoảng trống về trách nhiệm, khiến tổ chức gặp khó khăn trong việc tập hợp nguồn lực của các bên liên quan, nhất là các cơ quan nhà nước và chính quyền địa phương. Thứ ba, hiện tại, ở Việt Nam có Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) là tổ chức quốc gia tập hợp và đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân, người sử dụng lao động và hiệp hội doanh nghiệp ở Việt Nam nhằm mục đích phát triển, bảo vệ và hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước (Điều 2 Điều lệ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam do Thủ tướng chính phủ phê duyệt vào 2015), tổ chức này hiện đang hoạt động và thực hiện rất tốt việc truyền tải tiếng nói cho doanh nghiệp với cơ quan lập pháp, cơ quan quản lý cũng như tham vấn cho cộng đồng doanh nghiệp. Về cơ bản, cũng có thể thành lập một phòng chuyên trách về DNXH trong VCCI, nhưng như đã phân tích, DNXH là một mô hình đặc thù, lại là một mô hình mới cần được quan tâm và Khuyến khích, điều chỉnh nhiều hơn nữa, nếu để trong VCCI sẽ dẫn đến việc không thể bao quát hoạt động của DNXH một cách chu toàn nhất.

Do đó, nhóm nghiên cứu đề xuất thành lập một văn phòng chuyên trách có tính chất tương tự như VCCI chuyên về các hoạt động của DNXH, gọi là “Văn phòng DNXH Việt Nam” (VSEO). Văn phòng sẽ được thành lập và điều hành dưới những học giả, chuyên gia về lĩnh vực DNXH, nhân sự cũng sẽ bao gồm những luật sư tư vấn, nhân viên chuyên gia có hiểu biết về DNXH. Văn phòng sẽ chịu mọi trách nhiệm liên quan đến DNXH ở Việt Nam, bao gồm việc thực hiện các thủ tục đăng kí thành lập, đề ra các tiêu chuẩn và thực hiện cơ chế giám sát đảm bảo mục tiêu xã hội của DNXH và việc phân chia lợi nhuận, thực hiện các chương trình bảo vệ và nâng cao năng lực cạnh tranh của DNXH trong nền kinh tế thị trường, thực hiện ươm mầm và đào tạo nguồn DNhXH có kiến thức chuyên môn và tận tâm với sáng kiến của họ. Tính chất của Văn phòng sẽ là một tổ chức phi lợi nhuận, có văn phòng riêng, điều lệ riêng được Thủ tướng chính phủ phê duyệt, vừa đảm bảo là tiếng nói và cầu nối giữa cơ quan nhà nước với DNXH, vừa có được sự minh bạch, nhanh chóng thuận tiện và thân thiện với xã hội.

Việc thành lập VSEO sẽ góp phần giải quyết những hạn chế mà hiện tại đang là rào cản khiến các DNXH e ngại trước việc chuyển đổi mô hình hoặc thành lập tổ chức dưới dạng DNXH. Do vậy, việc thiết kế và xây dựng một bộ phận quản lý riêng cho DNXH, chịu trách nhiệm về toàn bộ những hoạt động liên quan đến mô hình DN này là một giải pháp cần được thực hiện nhanh chóng, khẩn cấp để có thể thực hiện được những phương hướng đặt ra hiện nay đối với mô hình này và phát triển mô hình DNXH phát triển mạnh mẽ, mở rộng và được biết đến rộng rãi trên toàn cả nước.

- Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chứng nhận riêng cho DNXH và tiến hành phân loại, cấp nhãn hiệu chứng nhận cho từng loại DNXH.

Về hệ thống tiêu chuẩn chứng nhận, theo kinh nghiệm của Thái Lan và Trung Quốc, đặc biệt là Trung Quốc, quốc gia đã đưa ra một hệ thống tiêu chuẩn chứng nhận khá chặt chẽ và đầy đủ cho DNXH bao gồm trình độ thể chế, mục tiêu xã hội, các giải pháp sáng tạo, hiệu suất được được đánh giá bằng hệ thống phần trăm để tiến hành cấp logo chứng nhận cho DNXH, giúp DNXH cải thiện tác động xã hội và tính bền vững, được người tiêu dùng công nhận bởi nhà đầu tư. Mặc dù tiêu chí công nhận của Thái Lan không chặt chẽ và khắt khe như Trung Quốc, quốc gia này lại có phần rộng rãi hơn và đặc biệt sáng tạo khi phân chia các loại DNXH dựa trên tỉ lệ tái đầu tư lợi nhuận không chia trở lại cho mục tiêu xã hội. Như vậy, ở Việt Nam cũng có thể học hỏi để phát triển một hệ thống chứng nhận được nghiên cứu và tiến hành bởi Văn phòng chuyên trách (VSEO), hệ thống chứng nhận này có thể giúp công nhận DNXH dù DNXH đang hoạt động dưới bất cứ một hình thức nào nhằm cổ vũ tinh thần khởi nghiệp DNXH của các cá

nhân, tổ chức. Sau đó, Văn phòng cũng sẽ tiến hành cấp “nhãn hiệu chứng nhận” cho DNXH từ cục Sở hữu trí tuệ, không phải tất cả các DNXH đều được cung cấp nhãn hiệu chứng nhận, mà việc có được cấp nhãn hiệu chứng nhận hay không sẽ phụ thuộc vào việc đáp ứng được các tiêu chí đưa ra hay không đặc biệt là về tỷ lệ lợi nhuận tái đầu tư vào các hoạt động phúc lợi xã hội. Ví dụ:

(1) DNXH loại A: là các DNXH đáp ứng đủ các yêu cầu của hệ thống chứng nhận và dành từ 80% tỷ lệ lợi nhuận không chia để tái đầu tư vì mục tiêu xã hội. Những DNXH này sẽ được cấp nhãn hiệu chứng nhận “Gold SE” chẳng hạn. Khi đó, DNXH A này sẽ được hưởng tất cả các ưu đãi, đặc biệt là về thuế, những DNXH được cấp nhãn “Gold SE” sẽ được miễn hoàn toàn thuế thu nhập doanh nghiệp với phần lợi nhuận còn lại sau khi tái đầu tư. Hơn nữa, khi được cấp nhãn hiệu chứng nhận “Gold SE”, Chính phủ có thể quy định các DNNN và Chính phủ ưu tiên mua hàng của loại doanh nghiệp này.

(2) DNXH loại B: là các DNXH đáp ứng đủ các yêu cầu của hệ thống chứng nhận và dành từ 51% đến dưới 80% tỷ lệ lợi nhuận không chia để tái đầu tư vào mục tiêu xã hội. Loại DNXH này sẽ không được cấp nhãn hiệu chứng nhận và hưởng ưu đãi như các quy định trong Luật Khuyến khích DNXH và các ưu đãi từ Chính sách của Chính phủ đã quy định.

Việc cung cấp một hệ thống tiêu chuẩn chứng nhận cho DNXH sẽ giúp các cơ quan quản lý đảm bảo được việc thực hiện mục tiêu xã hội của DNXH, đồng thời cũng sẽ kiểm soát được liệu việc thực hiện mục tiêu xã hội đó có đúng với quy định của luật không và có đảm bảo các an toàn về lao động và môi trường hay không. Một DNXH muốn có được nhãn hiệu chứng nhận thì phải đáp ứng toàn bộ những yêu cầu của hệ thống chứng nhận và yêu cầu liên quan với việc được nhận nhãn hiệu chứng nhận của Cục Sở hữu trí tuệ. Mặc dù hơi mất thời gian để kiểm chứng, nhưng việc có được nhãn hiệu chứng nhận sẽ là một lợi thế lớn đối với việc mở rộng phạm vi hoạt động, mô hình kinh doanh và lấy được lòng tin từ phía công chúng của DNXH. Khác với Thái Lan và Trung Quốc, việc cung cấp một nhãn hiệu chứng nhận bởi Cục Sở hữu trí tuệ sẽ giúp nhãn hiệu chứng nhận này có giá trị hơn và mang tính hệ thống hơn, quản lý rõ ràng, minh bạch hơn là khi được cung cấp bởi Văn phòng DNXH.

Tóm lại, một hệ thống tiêu chuẩn chứng nhận cho DNXH được áp dụng để nhận dạng sự tồn tại của DNXH một cách thực tế và cẩn thận thay vì lý thuyết quy định các tiêu chí tại Điều 10 LDN 2014 như hiện nay, qua đó, khi được cấp chứng nhận này, giống như một sự khởi động các ưu đãi như thuế, vốn, … đã được quy định trong Luật Khuyến khích phát triển ở trên. Đặc biệt, tính ưu việt của nó là chứng nhận được cấp sẽ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/09/2023