Nhóm Giải Pháp Về Nâng Cao Chất Lượng Thực Thi

được sử dụng như một “nhãn hiệu chứng nhận” công khai cùng với tên của doanh nghiệp, dẫn đến sự thống nhất giám sát từ phía của công chúng, dễ dàng thu hút vốn và xây dựng niềm tin với công chúng. Phương pháp này đồng thời cũng dễ dàng cho cơ quan quản lý hơn và phù hợp với mọi chủ thể dễ dàng trong mô hình và vừa thực hiện hoạt động phúc lợi xã hội.

4.2.2. Nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng thực thi

a) Giải pháp đối với cơ quan Nhà nước

Thứ nhất, chia sẻ công việc với DNXH

Ở Việt Nam, một số ngành nghề không hấp dẫn với khu vực kinh tế tư nhân (không mang lại giá trị kinh tế cao, lợi nhuận thu về thấp, ví dụ như: ngành, lĩnh vực cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng và công ích như vệ sinh môi trường, cấp thoát nước, vẫn tải hành khách công cộng…) thì hầu hết Nhà nước đang phải giữ vai trò đầu tư chủ đạo, tuy nhiên DNXH hoàn toàn có thể đáp ứng như một chủ thể phù hợp để Nhà nước chia sẻ gánh nặng. Bởi xét từ bản chất đến nghĩa vụ luật định, DNXH phù hợp để thay mặt nhà nước kinh doanh một số ngành nghề đặc biệt. Với đặc điểm là tổ chức kinh tế phi lợi nhuận, quan trọng hơn là tổ chức bị ràng buộc bởi tỉ lệ phân phối lại lợi nhuận, tái đầu tư vào xã hội, DNXH có đủ năng lực để thực hiện ngành nghề phục vụ lợi ích cộng đồng xã hội – điều mà các doanh nghiệp thông thường không thể thực hiện được do bản chất là tối ưu hóa lợi nhuận.

Dưới góc độ kinh tế, Nhà nước nhờ đó có thể tập trung được vốn để đầu tư và phát triển ngành nghề trọng điểm của nền kinh tế, giải quyết được các vấn đề đầu tư dàn trải, manh mún như hiện nay. Dưới góc độ hành chính, Nhà nước giảm tải được số lượng lớn trách nhiệm quản lý tại một số doanh nghiệp. Vì vậy, việc mở rộng phạm vi hoạt động của DNXH trong cách ngành nghề đặc biệt là việc làm cần thiết. Chính phủ có thể xây dựng lộ trình với các mốc giới hạn mức độ tham gia của DNXH theo thời gian và ngành nghề đặc biệt là việc làm cần thiết.

Thứ hai, đẩy mạnh chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển đối với DNXH

Nhìn từ phía kinh nghiệm quốc tế, thì đây là một trong những phải pháp quan trọng nhất để giúp DNXH giải quyết những khó khăn thách thức trong quá trình hoạt động. Trước mắt, cần có những chính sách hỗ trợ trực tiếp các DNXH để gia tăng số lượng và giúp các DNXH đi vào hoạt động ổn định, ví dụ như tổ chức các cuộc thi tìm kiếm sáng kiến DNXH cấp quốc gia để tìm ra những DNhXH và dự án tiềm năng được tài trợ vốn ban đầu. Hỗ trợ chính trực tiếp từ các DNXH để mở rộng các phạm vi tác động thông qua quá trình theo dõi và đánh giá sát sao. Về lâu dài, Chính phủ cũng có thể hỗ trợ tài

chính trực tiếp cho các DNXH để mở rộng quy mô tác động xã hội, thông qua một quá trình tuyển chọn, phân loại, theo dõi và đánh giá sát sao, hoặc cũng có thể vận động hỗ trợ tài chính không hoàn lại hoặc các khoản vay với lãi suất 0% đến từ các ngân hàng hoặc tổ chức tài chính khác. Tuy nhiên, những khoản tài trợ này chỉ nên thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định (từ 3 – 5 năm) để tăng cường tính tự vững, tránh sự ỷ lại của DNXH, tùy theo tính hiệu quả của tác động xã hội mà các mức hỗ trợ được xác định khác nhau.

Để làm được những điều trên, cần lập nên một Quỹ DNXH, quỹ này sẽ trực thuộc quản lý của VSEO, được tài trợ bởi ngân sách nhà nước trên cơ sở trích một tỷ lệ nhất định, nhận sự hồi quỹ từ các DNXH có kinh doanh thuận lợi, nhận tài trợ từ các tổ chức thiện nguyện và nhà đầu tư xã hội trong và ngoài nước. Ngoài ra, cũng cần các chính sách miễn giảm thuế DNXH trong một số lĩnh vực được Khuyến khích, công khai đấu thầu cạnh tranh để DNXH có thể tham gia cung cấp các sản phẩm và dịch vụ công ích. Ban hành các quy định các cơ quan, tổ chức khu vực công ưu tiên các sản phẩm, dịch vụ của DNXH khi thực hiện mua sắm công hoặc mua ngoài. Phát triển các chương trình đào tạo, nâng cao năng lực, kỹ năng quản lý doanh nghiệp, tài chính, nhân sự…thông qua các khóa đào tạo ngắn hạn cho các DNXH, hỗ trợ một phần chi phí đào tạo lao động cho các DNXH tuyển dụng các đối tượng yếu thế trong xã hội ở giai đoạn đầu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 187 trang tài liệu này.

b) Giải pháp đối với doanh nghiệp

Trước các chính sách về pháp luật và chính sách hỗ trợ dành cho DNXH, thì chính bản thân các DNXH cũng phải tự chủ động trong việc tận dụng các chính sách đó để phát triển kinh doanh hiệu quả, trong đó đổi mới sáng tạo được coi là công cụ hữu hiệu để tạo nên lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, kết quả đổi mới sáng tạo cho DNXH chính là việc áp dụng thành công các ý tưởng mới, là kết quả của các quá trình một doanh nghiệp kết hợp nguồn lực khác nhau như con người, tri thức, tài chính, công nghệ, cơ sở vật chất và mạng lưới, nhằm đạt mục tiêu phát triển của doanh nghiệp. Mục tiêu đổi mới sáng tạo có thể là sự tăng trưởng lợi nhuận bền vững cho doanh nghiệp, đảm bảo việc làm cho nhân viên, sản phẩm và dịch vụ mới với chất lượng tốt hơn nhưng chi phí thấp hơn cho khách hàng và các phương thức sản xuất mới; cụ thể như sau:

Pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay - 20

- Thứ nhất, tự bản thân các DNXH cần tìm hiểu, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp mình như khẳng định giá trị; nghiên cứu thị trường, sự tham gia của các bên liên quan hỗ trợ, tìm hiểu sức ép về nhu cầu xã hội. Đặc biệt, trong quá trình hoạt động và kêu gọi nguồn vốn của các nhà đầu tư, các DNXH cần liên tục có các biện pháp đổi mới mô hình kinh doanh, có các nghiên cứu và phát triển

riêng dành cho bản thân doanh nghiệp. Đặc biệt với các giá trị tự bản thân DNXH tạo ra, có thể kinh doanh trực tiếp, cũng có thể sử dụng thương mại hoá nhằm tối ưu hoá giá trị của doanh nghiệp

- Thứ hai: Đối với các chính sách hỗ trợ về vốn, các DNXH có thể tận dụng các quỹ ngoài ngân sách nhà nước phục vụ cho các mục tiêu xã hội, môi trường với điều kiện đáp ứng được các tiêu chí đánh giá, giá trị doanh nghiệp, tiềm năng hoạt động phát triển và sử dụng tốt nhất vốn ngân sách để đầu tư. Thậm chí, các DNXH có thể đàm phán, thương lượng với các ngân hàng thương mại giúp hỗ trợ tiếp cận vốn dễ hơn, lãi suất ưu đãi hơn; hoặc có thể vận động, huy động đầu tư từ các doanh nghiệp khác mong muốn đầu tư đóng góp cho xã hội và môi trường nhưng không phải là DNXH bằng việc bảo đảm giá trị đầu tư, sử dụng các kênh truyền thông quảng bá cho doanh nghiệp đầu tư để xây dựng hình ảnh của mình.

- Thứ ba, đối với nhân lực trong chính các DNXH cũng cần được chú trọng. Bởi lẽ, từ xưa đến nay, con người luôn là vốn quý nhất, là chìa khoá thành công cho mọi sự phát triển. Thực tế đã chứng minh những thành công to lớn nhờ lấy con người làm trọng tâm. Với óc sáng tạo và khả năng tư duy phong phú, phản ứng nhanh, thích ứng với hoàn cảnh, nhận thức và cảm xúc vượt bậc. Việc sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực mang yếu tố quyết định đến sự phát triển của công ty. DNXH cần có một đội ngũ nhân lực vừa có khả năng quản lý, thực hiện hoạt động kinh tế, vừa có kiến thức và cả mong muốn đóng góp xã hội và môi trường.

c) Giải pháp đối với chủ thể khác

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của xã hội về DNXH

Bản thân DXNH đã mang những ý nghĩa rất tốt đẹp và tích cực, có thể dễ dàng có được cái nhìn thiện cảm từ công chúng, nếu biết cách tuyên truyền và thông tin đúng cách, DNXH vừa có thể tiếp cận được những DNhXH tiềm năng mà hơn hết còn có được sự ủng hộ của người tiêu dùng, khách hàng, đối tác kinh doanh khác để từ đó tạo cho DNXH một nền tảng xã hội đầy triển vọng và thân thiện, thuận lợi cho việc cạnh tranh với các DN truyền thống. Về cơ bản, có thể định hướng việc nâng cao nhận thức như sau: Nâng cao nhận thức về lợi ích các DNXH có thể mang lại cho các cá nhân, cộng đồng, khối doanh nghiệp và chính phủ; Xây dựng và triển khai một chương trình truyền thông trên toàn quốc nhằm nâng cao nhận thức và hiểu biết về tiềm năng, vai trò của DNXH trong việc giải quyết các vấn đề xã hội và phát triển kinh tế bền vững của quốc gia

Hiện nay, đã có Bản tin Sáng tạo với Phát triển phát sóng trên Kênh truyền hình Hà Nội đưa các phóng sự về DNXH, một dự án mang tên Dự án hỗ trợ và phát triển DNXH

VSEED (Vietnam Social Entrepreneurship Empowerment and Development -- VSEED) đã được khởi xướng bởi nhóm các bạn trẻ có đam mê phát triển lĩnh vực DNXH tại Việt Nam và nhóm cựu sinh viên các chương trình học bổng của chính phủ Mỹ như Fulbright, UGRAD, SUSI. Đây là dự án đầu tiên về DNXH cho sinh viên, nhằm hỗ trợ phát triển mảng DNXH, được thực hiện nhằm mục đích thúc đẩy sự hiểu biết chung về lĩnh vực DNXH trong giới trẻ. Tuy nhiên, những chương trình được thực hiện còn quá ít, chưa có độ phủ sóng rộng và chưa nhận được nhiều quan tâm từ xã hội, còn các dự án do các cá nhân khởi xướng lên tuy rất năng động và mang nhiệt huyết nhưng khuyết điểm lớn nhất của họ là chưa nhận được nhiều sự quan tâm từ phía các cấp chính quyền, chưa có sự hỗ trợ về mặt kinh phí hoạt động nên những Dự án này vẫn còn bó hẹp trong một nhóm người và chưa thực sự có sức lan tỏa.

Như vậy, để DNXH có thể có được sự biết đến rộng rãi từ đầy đủ các thành phần trong xã hội, Chính phủ, các cơ quan ban ngành, tổ chức chuyên môn phải thực hiện những hành động cụ thể như sau:

Đẩy mạnh truyền thông dưới những hình thức phổ biến hiện nay như báo chí, truyền hình, Internet, sách viết và sách điện tử… để những người yêu thích ủng hộ có thể biết đến và chia sẻ.

Phổ biến kiến thức về DNXH thông qua các phong trào sinh viên để giới thiệu về mơ ước khởi nghiệp bằng DNXH. Phát triển các chương trình đào tạo bổ trợ về DNXH ở các trường đại học và cao học. Triển khai mô hình Vườn ươm tại các trường đại học.

Nâng cao công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về DNXH một cách toàn diện từ chính các cán bộ, nhân viên trong cơ quan quản lý DNXH đến với cộng đồng, dân cư và người dân.

Thứ hai, khuyến khích, cổ vũ DNXH phát triển

Theo Tháp nhu cầu Maslow20, nhu cầu được công nhận là một trong những nhu cầu cao nhất của con người được dùng trong quản trị học và chiến lược marketing. Do đó, một trong những biện pháp hữu hiệu nữa để nâng cao tinh thần DNXH là cung cấp cho DNXH và DNXH một sự công nhận chính thức từ tất cả những thành phần của xã hội. Cổ vũ, tạo động lực cho DNXH bằng sự vinh danh cống hiến của họ. Có thể thực hiện biện pháp này bằng cách:


20 Tháp nhu cầu Maslow gồm 5 tầng. Theo Maslow, bốn tầng thấp nhất tượng trưng cho nhóm Nhu cầu cơ bản. Các nhu cầu cơ bản này là những nhu cầu không thể thiếu hụt và các nhu cầu cao hơn chỉ được đảm bảo nếu nhóm nhu cầu này được đáp ứng. Tiếp theo là các nhóm nhu cầu bậc cao, thể hiện các mong muốn về mặt tinh thần như được phát triển như một cá nhân độc lập, được trau dồi bản thân.

Trao giải thưởng, vinh danh các DNXH thành công, phát triển và tạo được nhiều ảnh hưởng tích cực đối với xã hội dựa trên đánh giá của Phòng DNXH Việt Nam (VSEO, đã được đề xuất ở trên)

Tổ chức các Cuộc thi tìm kiếm sáng kiến DNXH để tìm ra những DNXH có trình độ, tri thức, sự hiểu biết và đủ tận tâm, tìm ra những dự án tiềm năng để bồi dưỡng và tài trợ, trở thành những DNXH đi đầu trong lĩnh vực DNXH Việt Nam.

Thứ ba, thực hiện đánh giá, nâng cao năng lực cạnh tranh của DNXH

Cần quan tâm đến việc chuẩn hóa, xếp loại và đánh giá các DNXH theo một hệ thống tiêu chuẩn nhất quán, cụ thể, rõ ràng, minh bạch. Việc thực hiện đánh giá này sẽ gặp phải một số vướng mắc như không có tiêu chí đồng nhất sẽ dẫn đến bất bình đẳng, lách luật, xung đột lợi ích, những tác động xã hội và động cơ không - vì – lợi nhuận rất khó để đo lường, nên Nhà nước có thể xây dựng các công thức chung cho một số loại tác động xã hội mà DNXH tạo ra, so sánh giữa chi phí đầu tư, chi phí cơ hội và hiệu quả thu được. Việc áp dụng kiểm toán, kế toán, tài chính vào kiểm toán xã hội cũng nên được áp dụng rộng rãi. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho DNXH có thể thực hiện thông qua các biện pháp sau:

Thực hiện hỗ trợ nâng cao năng lực, đào tạo kỹ năng quản lý DN, tài chính, nhân sự, tiếp thị cho các DNXH thông qua các khóa đào tạo hoặc sổ tay DNXH;

Tạo điều kiện hoặc xây dựng mặt bằng cho các DNXH thuê với giá rẻ để làm văn phòng, nơi đào tạo, thực tập, bán hàng…

Thực hiện đấu thầu công khai, cạnh tranh để các DNXH có thể tham gia cung cấp các sản phẩm và dịch vụ công ích như xử lý rác thải, bảo vệ môi trường, giáo dục, y tế cộng đồng, sinh kế bền vững, phát triển làng nghề truyền thống, du lịch thiện nguyện…

Thứ tư, xây dựng và phát triển hệ sinh thái cho DNXH

Kinh nghiệm của Anh và Hoa Kỳ cho thấy để thúc đẩy sự phát triển DNXH, không chỉ cần hoàn thiện môi trường pháp lý mà quan trọng hơn là tạo ra một hệ sinh thái mà ở đó DNXH có thể „bùng nổ‟. Trong hệ sinh thái đó, các DNXH được tạo điều kiện để tiếp cận nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm kinh doanh cũng như kết hợp và liên kết với nhau để hình thành một cộng đồng chung. Việc thành lập một văn phòng DNXH (VSEO) sẽ có thể thực hiện rất tốt vai trò này. Văn phòng sẽ phát triển và chú trọng vai trò của các tổ chức trung gian, khuyến khích nhà đầu tư xã hội, tham vấn tiếp cận với các chuyên gia đầu ngành để có thể cung cấp những giải pháp hữu hiệu trong quá trình hoạt động và làm chính sách liên quan đến DNXH.

Tạo sự kết nối chặt chẽ giữa các DNXH, giữa DNXH với các tổ chức trung gian, nhà đầu tư xã hội trong và ngoài nước thông qua việc phát triển mạng lưới DNXH. Các cơ quan chức năng tạo điều kiện đưa một số DNXH nổi bật tham gia các đoàn công tác nước ngoài cấp cao, đặc biệt tham gia hội chợ, triển lãm, giới thiệu sản phẩm, đăng ký danh bạ, thông tin dữ liệu xúc tiến quảng bá thương mại ở các hội chợ triển lãm quốc tế.

Bên cạnh đó, ngoài Nhà nước, các tổ chức trung gian như CSIP, Spark, Hội học giả DNXH Việt Nam…đều là những tổ chức có rất nhiều đóng góp cho lĩnh vực DNXH. Họ được tài trợ bởi các tổ chức NGO quốc tế và nhà đầu tư xã hội, do đó bản thân họ cũng có mạng lưới DNXH riêng. Việc thực hiện các chương trình Khuyến khích, chính sách hỗ trợ DNXH cần được thực hiện thông qua các tổ chức trung gian, nhằm đạt được hiệu quả cao nhờ thông qua tính cạnh tranh, tránh xung đột lợi ích, tham nhũng, thân thiện với xã hội, có thể mở rộng về nhiều các địa phương để tiếp cận sâu với mọi tầng lớp xã hội.

Thứ năm, tăng cường hợp tác kinh nghiệm quốc tế về DNXH

Thực tế cho thấy, trong thời đại hội nhập, việc kết hợp quốc tế chính là cách nhanh nhất để một tổ chức phát triển và học hỏi được nhiều kinh nghiệm hay. Hiện nay, nhờ sự nỗ lực, cố gắng từ phía chính phủ Việt Nam, Hội đồng Anh cũng như Chính phủ Thái Lan và Hàn Quốc đang nỗ lực thực hiện và tìm kiếm các cơ hội giao lưu trao đổi kinh nghiệm hợp tác về DNXH với Việt Nam. Việc hợp tác này có thể thúc đẩy DNXH Việt nam phát triển nhanh chóng, đồng thời củng cố mối quan hệ của các quốc gia với nhau, cụ thể:

Thực hiện huy động chuyên gia đầu ngành đa văn hóa, đa sắc tộc để xây dựng các chương trình đào tạo, hướng dẫn và sáng tạo loại hình giải thưởng cho DNXH thông qua phát triển một mạng lưới các đối tác Việt nam và các quốc gia khác.

Liên kết và hợp tác với các DNXH, các cộng đồng và các Viện nghiên cứu trong khu vực hoặc toàn cầu, nhằm phát triển và chia sẻ những phương thức tiếp cận mới trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, kinh tế và môi trường.

Mở rộng quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, khối tư nhân và giáo dục để tìm kiếm cơ hội hợp tác mới và môi trường.

Tìm kiếm và thiết lập môi trường hợp tác với các đối tác nước ngoài và cơ hội phát triển các dự án với nguồn tài chính hỗ trợ từ phía chính phủ các quốc gia nhằm tạo nguồn lực phát triển cho DNXH Việt Nam, nâng cao kinh nghiệm quản lý và giám sát DNXH.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

Như vậy, việc hoàn thiện khung pháp luật cùng với tăng cường các chính sách thực thi từ phía các chủ thể như Nhà nước, DNXH và các chủ thể khác là vô cùng quan trọng và cần thiết. Trong chương 4 đã trình bày về phương hướng hoàn thiện pháp luật về DNXH ở Việt Nam với những kiến nghị, đề xuất giải pháp cụ thể nhất xoay quanh những vấn đề quan trọng, có tác động trực tiếp tới DNXH như: Các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về DNXH như vấn đề về giải quyết mâu thuẫn trong các quy định về DNXH giữa Luật Doanh nghiệp năm 2014; năm 2020 và Bộ luật Dân sự 2015; hoàn thiện pháp luật về việc thống nhất các quy định về tên gọi, nhân lực, cam kết xã hội, cơ sở bảo trợ xã hội, quỹ xã hội và quỹ từ thiện; các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực thi từ phía các chủ thể ưu đãi cho DNXH và đặc biệt nâng cao nhận thức của xã hội đối với DNXH. DNXH là một mô hình tích cực, có ý nghĩa lớn và đem lại nhiều giá trị cho xã hội.

KẾT LUẬN


DNXH là một mô hình tổ chức kinh doanh đặc biệt, ra đời vì mục đích và sứ mệnh cộng đồng trên cơ sở thực hiện việc kinh doanh, có đóng góp to lớn trong việc giải quyết các vấn đề về xã hội và môi trường ở khắp các khu vực trên thế giới. Loại hình này còn khá mới mẻ ở Việt Nam và mới được công nhận chính thức trong Luật DN 2014. Mặc dù được đánh giá cao bởi các giá trị nhân văn mà DN này có thể mang lại nhưng thực tế cho thấy, các nhà kinh doanh vẫn không mấy mặn mà với hình thức này. Nguyên nhân là do khung khổ pháp lý về DNXH còn khá sơ sài và hạn hẹp, chưa được thúc đẩy quyền tự do kinh doanh của các doanh nhân, chưa thể hiện được tính đa dạng về chủ sở hữu, quy mô cũng như hình thức tổ chức hoạt động của DNXH. Hơn nữa, đang bị chi phối bởi nhiều quy định pháp luật DN nói chung về nghĩa vụ thuế, về tổ chức quản lý và các quy định khác mà chưa có những ưu đãi hỗ trợ đặc thù mà loại hình này đáng ra phải được hưởng.

Cùng với việc học hỏi kinh nghiệm quốc tế, cụ thể là DNXH Anh Quốc, Hoa Kỳ, Thái Lan, Trung Quốc và Hàn Quốc đối chiếu với thực tiễn pháp luật Việt Nam về pháp luật về DNXH, chúng ta có thể rút ra được những bài học quý giá cả từ những ưu điểm và hạn chế trong hệ thống pháp luật về DNXH của các quốc gia này, để từ đó hoàn thiện hơn pháp luật về DNXH.

Thực hiện giải quyết những hạn chế của pháp luật về DNXH Việt Nam ở thời điểm hiện tại có thể được thực hiện theo những kiến nghị trên, bao gồm những phương hướng và giải pháp liên quan đến đồng bộ, hoàn thiện pháp luật cũng như xây dựng một đạo luật mới có hiệu quả hơn. Luận án sau khi đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật thì có đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về DNXH ở Việt Nam theo các nhóm giải pháp cụ thể là nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật và nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng thực thi. Đối với các nhóm giải pháp, luận án đều lý giải việc học hỏi hay không đối với mô hình pháp luật về DNXH từ các quốc gia trên thế giới. Nếu như DNXH được đầu tư, hỗ trợ phát triển đúng cách và thích đáng, loại hình này có thể đóng góp cho nền kinh tế quốc dân không chỉ ở khía cạnh lợi ích kinh tế, mà cả những đóng góp to lớn về giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường, hỗ trợ Nhà nước trong công cuộc phát triển bền vững, xa hơn nữa là sự ổn định về tình hình kinh tế xã hội trong khu vực và trên toàn cầu.

Xem tất cả 187 trang.

Ngày đăng: 15/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí