thì pháp luật cũng ghi nhận sự tồn tại và đóng góp của khối doanh nghiệp tư nhân trong quá trình đào tạo nghề bao gồm cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc sở hữu của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân hoặc cá nhân, do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân hoặc cá nhân đầu tư, xây dựng; và các Cơ sở giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ tư , các quy định về người dạy , người hoc khuyết tâṭ.
; dạy ngh ề cho người
Pháp luật hiện hành đã có sự mở rộng ưu đãi cho người học nghề như việc mở rộng phạm vi miễn giảm học phí đặc biệt đối với người học là người khuyết tật, ưu tiên tuyển dụng,.. để thu hút học viên. Đồng thời, đối với người dạy nghề, pháp luật cũng đã có sự ghi nhận về danh hiệu và các chế độ đãi ngộ phù hợp cho người dạy nghề để họ yên tâm công tác và cống hiến cho công tác giảng dạy.
Thứ năm, các quy định về quản lý nhà nước về dạy nghề bao gồm việc thống nhất quản lý chung, công tác thanh tra, xử lý vi phạm, khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
1.3. Đặc điểm của pháp luật về dạy nghề
Pháp luật về dạy nghề cũng giống như các ngành luật khác, cũng mang đầy đủ những đặc điểm chung bao gồm:
- Tính giai cấp thể hiện ở chỗ pháp luật về dạy nghề là những quy tắc xử sự bắt buộc chung thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và đại đa số nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, được đảm bảo thực hiện bằng bộ máy nhà nước và phương thức tác động của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Việt Nam trên cơ sở giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế của nhà nước nhằm xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Pháp luật về dạy nghề thể hiện sâu sắc tính nhân đạo xã hội của nghĩa, đề cao vai trò của giáo dục pháp luật.
Pháp luật về dạy nghề cũng thể hiện tính dân tộc và nhân dân ở mục tiêu xây dựng và phát triển ngành dạy nghề hướng đến xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, pháp luật về dạy nghề là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc phát triển dạy nghề ở Việt Nam hiện nay.
- Tính bắt buộc chung (hay còn gọi là tính qui phạm phổ biến): Trước hết, qui phạm được hiểu là những qui tắc xử sự chung, được coi là khuôn mẫu, chuẩn mực, mực thước đối với hành vi của 1 phạm vi cá nhân, tổ chức. Pháp luật về dạy nghề được biểu hiện cụ thể là những qui phạm pháp luật. Do vậy nó cũng là qui tắc xử sự chung cho phạm vi cá nhân hoặc tổ chức nhất định. Pháp luật về dạy nghề được Nhà nước ban hành không chỉ dành riêng cho một cá nhân, tổ chức cụ thể mà áp dụng cho tất cả các chủ thể có liên quan trong lĩnh vực học nghề, dạy nghề hay giáo dục nghề nghiệp.
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp luật về dạy nghề ở Việt Nam - 1
- Pháp luật về dạy nghề ở Việt Nam - 2
- Pháp Luật Về Dạy Nghề Tạo Cơ Sở Pháp Lý Cho Việc Huy Động Các
- Những Kết Quả Đạt Được Trong Thực Hiện Pháp Luật Về Dạy Nghề
- Về Công Tác Tuyển Sinh , Kiểm Điṇ H Chất Lươn Văn Bằng Chứng Chỉ Cho Người Học Nghề
Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.
- Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức: Yêu cầu của pháp luật là phải xác định chặt chẽ về mặt hình thức, được biểu hiện ở: pháp luật về dạy nghề và các văn bản hướng dẫn thi hành đều đảm bảo trong việc sử dụng lời văn chính xác, cụ thể, dễ hiểu, không đa nghĩa. Mặc dù mỗi một cơ quan/ loại cơ quan chỉ được ban hành những loại văn bản nhất định có tên gọi xác định và theo một trình tự, thủ tục nhất định, tuy nhiên các văn bản pháp luật về dạy nghề đều đã được đảm bảo tính phù hợp về hình thức theo quy định của Luật ban hành văn bản pháp luật, đồng thời đảm bảo các quy định liên quan đến việc trình bày, thể thức, văn phong,…
- Tính đảm bảo được thực hiện bằng bộ máy cưỡng chế của Nhà nước: Pháp luật về dạy nghề do Nhà nước ban hành và thừa nhận đồng thời Nhà nước sẽ đảm bảo cho pháp luật về dạy nghề được thực hiện trong thực tiễn đời sống. Sự đảm bảo đó được thể hiện thông qua việc Nhà nước tạo điều kiện khuyến khích giúp đỡ để chủ thể thực hiện pháp luật hoặc trong những
trường hợp xảy ra những hành vi vi phạm quy định của pháp luật, Nhà nước đảm bảo cho pháp luật được thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước như công an, cảnh sát, tòa án,… Tính cưỡng chế là tính không thể tách rời khỏi pháp luật nói chung và pháp luật về dạy nghề nói riêng.
Bên cạnh đó , pháp luật về dạy nghề cũng có những đăc sau đây:
điểm riêng
Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh của pháp luâṭ về dạy nghề.
Theo quy định của Luật dạy nghề 2006, phạm vi điều chỉnh của luật dạy nghề được giới hạn trong việc tổ chức, hoạt động của cơ sở dạy nghề; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động dạy nghề. Sau này theo Luật giáo dục nghề nghiệp 2014 thì phạm vi điều chỉnh của pháp luật về dạy nghề được mở rộng quy định về hệ thống giáo dục nghề nghiệp; tổ chức, hoạt động của cơ sở giáo dục nghề nghiệp; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động giáo dục nghề nghiệp. Việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của luật giáo dục nghề nghiệp đã dẫn đến một số điều chỉnh về hệ thống giáo dục quốc dân theo quy định của Luật giáo dục số 38/2005/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 44/2009/QH12. Điều này đã thực sự nâng cao vị trí, vai trò của hoạt động dạy nghề hay giáo dục nghề nghiệp trong hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay. Giáo dục nghề nghiệp đã thực sự trở thành 1 phần trong hệ thống giáo dục quốc dân, tồn tại song song, bình đẳng với việc đào tạo các trình độ đại học và sau đại học. Quy định này cũng nhằm hiện thực hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với việc phân luồng giáo dục đào tạo và yêu cầu cấp thiết về phát triển nguồn nhân lực có tay nghề, chất lượng cao, khẳng định tính cần thiết trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật phục vụ trực tiếp trong quá trình sản xuất nhằm đáp ứng yêu cầu nhân lực trong quá trình phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tương lai.
Thứ hai, về đối tượng áp dụng của pháp luật về dạy nghề.
Trước đây Luật dạy nghề năm 2006 chỉ áp dụng đối với tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động dạy nghề và tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động dạy nghề tại Việt Nam. Tuy nhiên, Luật giáo dục nghề nghiệp năm 2014 đã mở rộng đối tượng áp dụng của pháp luật về dạy nghề, theo đó sẽ áp dụng đối với trung tâm giáo dục nghề nghiệp, trường trung cấp, trường cao đẳng; doanh nghiệp và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động giáo dục nghề nghiệp tại Việt Nam. Xuất phát từ thực tế trong quá trình triển khai pháp luật về dạy nghề đó là sự tham gia vô cùng tích cực và hiệu quả của các doanh nghiệp trong việc đào tạo học viên trong lĩnh vực học nghề và dạy nghề, không chỉ vậy hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp chủ động đặt hàng số lượng công nhân để làm việc trực tiếp cho doanh nghiệp. Mục tiêu cuối cùng của các học viên tham gia học nghề là để tìm kiếm việc làm và giảm tỉ lệ thất nghiệp do đó việc khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp vào hoạt động dạy nghề là vô cùng cần thiết. Cộng đồng doanh nghiệp với tư cách là giới chủ sử dụng lao động có tiếng nói rất quan trọng trong quá trình đào tạo dạy nghề. Từ trước đến nay, việc dạy nghề chủ yếu là do các trường trong hệ thống của nhà nước thực hiện. Song với yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn lao động về cả chất lượng và số lượng như hiện nay thì chắc chắn nhà nước không thể một mình thực hiện được mà phải có sự tham gia của toàn xã hội. Thực hiện chủ trương xã hội hóa lĩnh vực dạy nghề của Đảng và Nhà nước, việc mở rộng đối tượng áp dụng là doanh nghiệp của pháp luật về dạy nghề đã khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào đào tạo, đồng thời thể hiện chủ trương mở cửa mời gọi đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này. Đồng thời, để đảm bảo việc học viên sau đào tạo có năng lực làm việc thực tế thì việc gắn đào tạo với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp mới thực sự mang lại hiệu quả cao cho công tác dạy nghề.
Thứ ba, mối quan hệ chặt chẽ giữa pháp luật về dạy nghề với các ngành luật khác.
Do đặc thù về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng nên pháp luật về dạy nghề có mối quan hệ chặt chẽ với các ngành luật khác đặc biệt là Luật lao động, Luật Giáo dục, Luật Việc làm.
Để đảm bảo công tác an sinh xã hội thì việc giải quyết việc làm, dạy nghề và bảo vệ quyền lợi ích cho người lao động là những vấn đề có tính gắn bó mật thiết với nhau, cần thiết phải tiến hành đồng bộ và triệt để, không chỉ nhằm đảm bảo vấn đề an sinh xã hội mà còn đảm bảo phát triển nguồn nhân lực bền vững. Theo quy định tại Khoản 2, Điều 9, Chương II của Bộ Luật Lao động hiện hành thì “Nhà nước, người sử dụng lao động và xã hội có trách nhiệm tham gia giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm”. Ngoài việc chú trọng đến tạo điều kiện thuận lợi để phát triển việc làm, Điều 14, Chương II - Bộ luật lao động còn quy định về chức năng của Tổ chức dịch vụ việc làm là: “…tư vấn, giới thiệu việc làm và dạy nghề cho người lao động; cung ứng và tuyển lao động theo yêu cầu của người sử dụng lao động; thu thập, cung cấp thông tin về thị trường lao động và thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật”. Ngoài ra, trước tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” của Việt Nam như hiện nay, một trong nhưng điểm nhấn đáng chú ý của pháp luật lao động là bảo đảm quyền học nghề và dạy nghề của tất cả các công dân, đồng thời có các quy định về bồi dưỡng và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, điều này thể hiện rõ nét nhất mối quan hệ mật thiết giữa pháp luật về dạy nghề, học nghề và pháp luật về lao động.
Quyền học nghề và dạy nghề được quy định tại Điều 59 Bộ Luật Lao động, theo đó:
Người lao động được lựa chọn nghề, học nghề tại nơi làm việc phù hợp với nhu cầu việc làm của mình. Nhà nước khuyến
khích người sử dụng lao động có đủ điều kiện thành lập cơ sở dạy nghề hoặc mở lớp dạy nghề tại nơi làm việc để đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề cho người lao động đang làm việc cho mình và đào tạo nghề cho người học nghề khác theo quy định của pháp luật về dạy nghề.
Người học nghề, tập nghề phải phải đủ 14 tuổi trở lên, trừ một số nghề do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định có thể thu nhận người học nghề có độ tuổi ít hơn, và phải có đủ sức khỏe để phù hợp với yêu cầu của nghề theo học.
Người sử dụng lao động tuyển người vào học nghề, tập nghề để làm việc cho mình thì không phải đăng ký hoạt động dạy nghề và không được thu học phí. Hai bên phải ký kết hợp đồng đào tạo nghề. Hợp đồng đào tạo nghề phải làm thành 02 bản, mỗi bên giữ 01 bản. Trong thời gian học nghề, tập nghề, nếu người học nghề, tập nghề trực tiếp hoặc tham gia lao động làm ra sản phẩm hợp quy cách, thì được người sử dụng lao động trả lương theo mức do hai bên thoả thuận. Hết thời hạn học nghề, tập nghề, người sử dụng lao động phải ký kết hợp đồng lao động khi đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.
Thông qua mối liên hệ chặt chẽ giữa pháp luật về dạy nghề với pháp luật về lao động và việc làm cho thấy sự gắn kết giữa yêu cầu tạo việc làm cho người lao động, dạy nghề cho người lao động và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ lao động theo hướng bảo vệ người lao động.
1.4. Vai trò của pháp luật về dạy nghề
1.4.1. Pháp luật về dạy nghề tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động giáo
dục, đào tao
nghề cho môt
bô ̣ phân
không nhỏ người lao đôn
g ở nướ c ta
Pháp luật về dạy nghề đóng vai trò quan trọng đối với hoaṭ đôn
g day
nghề ở nước ta . Toàn cầu hoá kinh tế đang là xu thế tất yếu khách quan, tạo cơ hội phát triển nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là những nước đang phát triển như Việt Nam. Cạnh tranh kinh tế - thương mại giữa các nước ngày càng gay gắt, lợi thế cạnh tranh sẽ thuộc về quốc gia nào có nguồn nhân lực chất lượng cao.
Đối với Việt Nam, xu thế toàn cầu hóa giúp cho đội ngũ lao động nước ta được tham gia vào thị trường lao động của khu vực và thế giới nên đó tạo cơ hội phát triển về số lượng, nâng cao về chất lượng của lực lượng lao động, nhưng đồng thời họ sẽ phải hứng chịu những thách thức gay gắt về sự cạnh tranh với lao động nước ngoài không những ở phạm vi thị trường lao động thế giới mà còn ngay ở thị trường lao động trong nước. Nhưng về cơ bản, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng là cơ hội tốt để dạy nghề Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với các thành tựu và kinh nghiệm dạy nghề của các nước. Cách mạng khoa học phát triển với tốc độ nhanh và có bước nhảy vọt, với việc sử dụng ngày càng nhiều công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại, nhiều ngành nghề mới xuất hiện đòi hỏi người lao động phải thường xuyên bổ sung, cập nhật kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp để có đủ năng lực thích ứng với những yêu cầu thay đổi nhanh chóng trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam trong những năm qua đã xuất hiện nhiều yếu tố có ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng nguồn nhân lực nói chung, đến công tác đào tạo nghề nói riêng. Trong những năm từ 2001- 2008, nền kinh tế nước ta đó đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, GDP tăng bình quân trên 7%/năm [18]; cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch mạnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu chế xuất, các ngành kinh tế mũi nhọn ngày càng phát triển; đầu tư trong nước, quốc tế thời gian qua và dự kiến trong thời gian tới ngày càng tăng; công nghệ mới được đưa vào sản xuất ngày càng nhiều; đòi hỏi
nguồn nhân lực phải tăng nhanh về số lượng và nâng cao chất lượng, hợp lý về cơ cấu ngành nghề đào tạo và cơ cấu trình độ đào tạo. Hiện tại, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề ở nước ta còn thấp (khoảng 26%) [18], tình trạng các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp trong các khu chế xuất, khu công nghiệp, doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài “khát lao động có kỹ thuật cao” ngày càng trầm trọng. Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay chưa cao (theo đánh giá của Ngân hàng thế giới thì chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79/10 điểm) [18] nên năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam không cao. Nếu chất lượng nguồn nhân lực không được cải thiện thì năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế thời gian tới sẽ gặp khó khăn lớn. Bối cảnh quốc tế và trong nước nói trên đòi hỏi chúng ta phải phát huy lợi thế, tranh thủ thời cơ để đổi mới và phát triển hệ thống dạy nghề tiên tiến, hiện đại nhằm đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xuất khẩu lao động và đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Trước những cơ hội và thách thức đối với dạy nghề Việt Nam, Luật Dạy nghề được Quốc hội thông qua tháng 11 năm 2006 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 6 năm 2007 thực sự là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động dạy nghề phát triển mạnh mẽ. Lần đầu tiên hệ thống dạy nghề với 3 cấp trình độ dạy nghề (sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề) được hình thành, ổn định, phát triển ở Việt Nam và bước đầu đã đáp ứng nhu cầu nhân lực trực tiếp phục vụ các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với chất lượng cao, góp phần đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Luật Giáo dục nghề nghiệp được Quốc hội khóa XIII thông qua tại Kỳ họp thứ 8 ngày 27 tháng 11 năm 2014 có hiệu lực thi hành từ 01 tháng 7 năm