Pháp Luật Về Dạy Nghề Tạo Cơ Sở Pháp Lý Cho Việc Huy Động Các

2015 với rất nhiều đổi mới tích cực đã thể chế hóa mạnh mẽ chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nói chung, giáo dục nghề nghiệp nói riêng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI, giải quyết nhiều bất cập trong thực tiễn, tạo nên một diện mạo mới của hệ thống dạy nghề ở Việt Nam.

1.4.2. Pháp luật về dạy nghề tạo cơ sở pháp lý cho việc huy động các

nguồn lưc

xã hôi

tham gia vào hoaṭ đôn

g day

nghề

Pháp luật về dạy nghề đã mở ra cơ hội cho hoạt động dạy nghề nói chung và các cơ sở dạy nghề nói riêng được tiếp cận với các nguồn vốn được đầu tư trong và ngoài nước, thu hút khu vực tư nhân tham gia mạnh mẽ vào việc đầu tư phát triển các trường dạy nghề ngoài công lập, góp phần to lớn vào việc thiện thay đổi diện mạo của lĩnh vực dạy nghề trong 10 năm vừa qua. Đối với các nhà đầu tư thực hiện xã hội hóa dạy nghề được hưởng nhiều chính sách ưu đãi, như được Nhà nước giao đất, cho thuê đất đã hoàn thành giải phóng mặt bằng; được hỗ trợ kinh phí bồi thường, giải phóng mặt bằng đối với các dự án đầu tư đã tự thực hiện công tác đền bù, giải phóng mặt bằng; được hưởng mức ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp; được tham gia cung cấp các dịch vụ công do Nhà nước tài trợ, đặt hàng; tham gia đấu thầu nhận các hợp đồng, dự án sử dụng nguồn vốn trong và ngoài nước phù hợp với chức năng, nhiệm vụ hoạt động theo quy định của pháp luật; được đối xử bình đẳng đối với các sản phẩm và dịch vụ của cơ sở thực hiện xã hội hóa,….. Đối với việc thu hút đầu tư từ nước ngoài, các chính quyền địa phương luôn luôn tạo điều kiện về vốn đối ứng các các thủ tục để tiếp nhận và sử dụng các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam trong lĩnh vực dạy nghề. Đặc biệt kể từ năm 2008 cho đến nay, trên cơ sở pháp luật về dạy nghề và các văn bản hướng dẫn thi hành đồng bộ đã giúp cho việc triển khai và thực hiện thành công nhiều dự án từ nguồn vốn vay ODA và các nguồn vốn viện trợ

không hoàn lại từ nước ngoài khác, đã xây dựng mới, mua sắm hàng loạt các trang thiết bị dạy nghề cho các trường công lập và ngoài công lập.

1.4.3. Pháp luật về dạy nghề g óp phần giáo dục ý thức định hướng ,

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.

phân luồng cho viêc

lưa

Pháp luật về dạy nghề ở Việt Nam - 4

chon

nghề nghiêp̣ , giảm tải cho giáo dục đại học

Phân luồng học sinh sau trung học (bao gồm sau trung học cơ sở và sau trung học phổ thông) đã được Đảng ta đề ra từ rất sớm trong các chủ trương đổi mới giáo dục và đào tạo. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (1996) đã đề cập vấn đề này một cách căn bản, nhằm “tăng quy mô học nghề bằng mọi hình thức để đạt được 20-25% đội ngũ lao động được qua đào tạo vào năm 2000… Đào tạo đủ công nhân lành nghề cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, có tính đến nhu cầu xuất khẩu lao động”. Chủ trương này được coi là giải pháp căn cơ để giúp mỗi cá nhân học sinh tự nhận biết khả năng của mình, chọn đúng cách đi phù hợp với năng lực, sở trường và nhu cầu lao động xã hội mà không nhất thiết phải theo đuổi việc được học đại học. Tuy nhiên, kết quả phân luồng, hướng nghiệp học sinh sau trung học đến nay vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn. Tỷ lệ học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở lên học trung học phổ thông ngày càng tăng: năm học 1990 -1991 là 40,27%, đến năm học 2011- 2012 là 80,36%; tỷ lệ tuyển sinh vào đại học, cao đẳng cũng tăng thường xuyên làm cho tỷ lệ học sinh sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông lên học đại học ngày càng cao. Nếu như trước đây mỗi năm chỉ tăng 10-15% thì 5 năm gần đây tăng xấp xỉ 50%. Số học sinh tốt nghiệp trung học đi học nghề và trung cấp chuyên nghiệp chỉ chiếm trên dưới 27%; số học sinh đi vào thị trường lao động trên dưới 23%. Thậm chí nhiều nơi, số học sinh đi học nghề còn giảm dần theo từng năm: khu vực đồng bằng sông Cửu Long và Nam Bộ chỉ tương ứng khoảng 5,7%-5,8%; tỷ lệ học sinh khu vực miền núi phía Bắc không tiếp tục học nghề hoặc học trung cấp chuyên nghiệp khoảng 30%. Những con số này cho thấy tỷ lệ học sinh đi học nghề rất thấp.

Công tác phân luồng, hướng nghiệp học sinh sau trung học ngày càng trở nên bế tắc, nhất là phân luồng sau tốt nghiệp trung học cơ sở khi tuổi đời của các em còn là “vị thành niên” và yêu cầu lao động xã hội còn mang nặng tâm lý “phải tốt nghiệp trung học phổ thông” mới được coi là đủ “trình độ văn hóa” để ghi vào lý lịch (10/10 hoặc 12/12). Thêm vào đó, phải tốt nghiệp đại học mới thỏa mãn yêu cầu của các bậc phụ huynh dẫn đến một thực trạng xã hội ngày càng tràn lan các trường đại học, cao đẳng mà thiếu hẳn một hệ thống giáo dục dạy nghề quy chuẩn làm cho xu hướng bất hợp lý về nguồn nhân lực qua đào tạo ngày càng tăng. Hệ lụy là cơ cấu nhân lực nước ta luôn bất cập như “thừa thầy thiếu thợ”, cử nhân thất nghiệp hoặc không làm đúng nghề trong khi nhu cầu công nhân kỹ thuật lại rất thiếu nguồn tuyển, do đó không đáp ứng được yêu cầu phát triển lành mạnh của nền kinh tế - xã hội. So với các nước, trong thời kỳ tiến hành công nghiệp hóa, cơ cấu nguồn nhân lực có tỷ lệ kỹ sư/trung cấp chuyên nghiệp/công nhân kỹ thuật là 1/4/10 thì ở nước ta, năm 1979 tỷ lệ này là 1/2,25/7,1 và đến năm 2012 lại tụt lùi là 1/0,43/0,56 [13].

Quy định chính sách của Nhà nước về dạy nghề trong đó ưu tiên phát triển cơ sở, trang thiết bị, chế độ ưu đãi cho người dạy, người học, khuyến khích xã hội hóa dạy nghề, ... đã bước đầu tạo cơ sở pháp lý cho việc phân luồng học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở, trung học phổ thông và dạy nghề phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mặc dù quy định của Luật chưa cụ thể song đã tạo tiền đề, cơ sở để triển khai và thực hiện chính sách phân luồng học sinh từ các bậc học góp phần giáo dục ý thức của học sinh và phụ huynh trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp

1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về dạy nghề

1.5.1. Yếu tố chính tri ̣

Xuất phát từ nhận thức khách quan, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin: Dù ở thời đại nào, hay hình thái kinh tế - xã hội nào thì con người

cũng luôn giữ vai trò quyết định, tác động trực tiếp đến tiến trình phát triển của lịch sử xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời tới nay luôn chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nhất là trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với quy mô dân số đông, lực lượng lao động dồi dào, đó là sức mạnh, là yếu tố cơ bản để phát triển nhanh. Song, với điểm xuất phát thấp, nguồn vốn nhỏ bé, trình độ công nghệ vừa thiếu vừa lạc hậu, hạ tầng kém… thì một khi nguồn lao động đã dư thừa lại tăng với tốc độ nhanh sẽ gây sức ép lớn về việc làm. Tình trạng thừa lao động, thiếu việc làm là vấn đề được Đảng ta đặc biệt quan tâm giải quyết. Về cơ cấu nguồn nhân lực, thực tế phản ánh trình độ phân công lao động thấp kém của một nền nông nghiệp lạc hậu. Lao động trong nông nghiệp chiếm tới 73%, trong khi công nghiệp và dịch vụ chỉ chiếm 27% (1997). Cơ cấu lao động được đào tạo giữa các ngành, các vùng và giữa các bậc có sự chênh lệch. Dân số nông thôn chiếm gần 80% dân số cả nước, nhưng chỉ chiếm 47,38% lực lượng lao động được đào tạo trong cả nước. Trong 73% số lao động làm việc trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp số người được đào tạo chiếm 7%. Số lao động có trình độ cao cũng được phân bố không hợp lý, chủ yếu tập trung ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn khác. Khi tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mặc dù được quan tâm đào tạo, song năm 1997, lao động trí tuệ nước ta mới chiếm 7,9%, lao động chân tay là 92,1% [16].

Về trình độ của lực lượng lao động, năm 1997, tỷ lệ lao động qua đào tạo mới chiếm 14,3%, nhưng cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề không hợp lý. Trình độ lao động qua đào tạo ở các bậc là: trên đại học 0,3%; đại học và cao đẳng là 20,1%; trung học chuyên nghiệp là 35,8%; công nhân kỹ thuật có bằng cấp là 24,4%; công nhân kỹ thuật không có bằng cấp là 19,4%. Năm

2002, nước ta có khoảng 900.000 lao động có trình độ cao đẳng trở lên (chiếm 2,43% lực lượng lao động xã hội). Trong đó, số người có trình độ trên đại học khoảng 10.000 người (chiếm khoảng 0,027% lực lượng lao động xã hội). Điều này cho thấy, khi tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nguồn nhân lực nước ta chất lượng còn rất thấp, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải có chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa [20].

Trước khi bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996), tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua, một lần nữa Đảng ta khẳng định:

Phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội.

Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa được Đại hội VIII của Đảng khẳng định với tính chất là chiến lược thì vấn đề phát triển nguồn nhân lực càng được chú trọng. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp phát triển mang tính cách mạng sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nó không phải do bất kỳ lực lượng siêu nhiên nào mang lại mà là sự nghiệp của quảng đại quần chúng với tư cách là nguồn lực quyết định. Nguồn lực cơ bản, to lớn, quyết định này phải có hàm lượng trí tuệ, phẩm chất ngày một cao mới có thể đáp ứng được sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa to lớn này. Đại hội VIII của Đảng khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Nhân lực lại càng là yếu tố số

một, là nguồn cội, động lực chính tạo nên lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định tốc độ và sự phát triển bền vững của phương thức sản xuất mới ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Vì thế, muốn đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách bền vững không thể không chăm lo phát triển con người. Đảng ta xác định rất rõ rằng, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.

Từ sau Đại hội VIII, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết về nhiều lĩnh vực liên quan trực tiếp đến việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12-1996) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực. Nghị quyết nêu: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục là xây dựng những thế hệ con người thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết xác định:

Giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu; Giáo dục, đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân; Phát triển giáo dục, đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa học - công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh; Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo; Giữ vai trò nòng cốt của nhà trường công lập đi đôi với đa dạng hóa các loại hình giáo dục, đào tạo, trên cơ sở Nhà nước thống nhất quản lý. Phát triển nguồn lực con người một cách toàn diện về cả trí tuệ, sức khỏe, đạo đức, thái độ….

Phát triển nguồn nhân lực phải là sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội bằng nhiều biện pháp, trong đó giáo dục và

đào tạo là then chốt. Mọi kế hoạch xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội phải được đặt trong mối quan hệ không thể tách rời với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình và cả cộng đồng Việt Nam, cho xây dựng và phát triển nguồn nhân lực nhiều về số lượng, mạnh về chất lượng.

Những quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển nguồn nhân lực thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đã nhanh chóng được cụ thể hóa bằng các cơ chế, chính sách, chương trình, dự án, kế hoạch hằng năm và kế hoạch 5 năm nhằm thực hiện các mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Đại hội IX (2001) của Đảng nêu rõ nhận thức:“đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, đồng thời khẳng định phương hướng:

Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; triển khai thực hiện chương trình phổ cập trung học cơ sở; ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện đại; từng bước phát triển kinh tế tri thức [10].

Phương hướng này đã được cụ thể hóa bằng một hệ thống giải pháp khả thi đi vào công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Chăm lo phát triển nguồn lực con người là một định hướng lớn trong chiến lược phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội X thể hiện rõ quyết tâm phấn đấu để giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu. Tập trung đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, chấn hưng giáo dục Việt Nam để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao.

Đại hội XI (2011) kế thừa và phát triển quan điểm phát triển nguồn

nhân lực từ các đại hội trước, đã nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu đó Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” được khẳng định là khâu đột phá thứ hai. Đây được xem là khâu đột phá đúng và trúng với hoàn cảnh nguồn nhân lực nước ta hiện nay khi hội nhập quốc tế, cạnh tranh quyết liệt và đòi hỏi của thời đại khoa học, công nghệ. Khâu đột phá trúng và đúng này đã và đang tập trung nâng cao sức mạnh nội sinh - nguồn nhân lực, để tồn tại và phát triển trong một thế giới năng động, thế giới của khoa học và công nghệ. Vì thế, Đại hội XI của Đảng đồng thời cũng xác định rõ phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Đây chính là nội dung quan trọng thể hiện tính thực tế của chiến lược phát triển nhanh và bền vững của nước ta trong điều kiện hiện nay. Để thực hiện chiến lược này, Đại hội XI cũng nêu rõ những giải pháp trực tiếp cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đó là:

Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam; đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt; Xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam.

Sự nghiệp đổi mới càng đi vào chiều sâu, thành tựu thu được ngày càng to lớn và được khẳng định. Quan điểm về xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế được Đảng thể hiện sâu sắc với quyết tâm chính trị cao và sự

Xem tất cả 111 trang.

Ngày đăng: 21/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí