Hệ Thống Pháp Luật Về Đấu Thầu Điện Tử (Xét Trên Khía Cạnh Thương Mại Điện Tử) Và Thực Trạng Đấu Thầu Điện Tử Ở Việt Nam

sắm và tư nhân mà các bên thỏa thuận với chính phủ là, khi bảo hành do hoàn cảnh, điều tra và chịu trách nhiệm cho hành động liên quan của họ.

- Giám sát quá trình đấu thầu và thực thi các hợp đồng đã trao với đảm bảo rằng hợp đồng được trao trên cơ sở các quy định của Luật, các quy định, quy chế để thực hiện nó và tất cả các hợp đồng này được thực hiện theo đúng tiêu chuẩn.

Luật khuyến khích việc mua sắm theo phương thức điện tử để thúc đẩy tính minh bạch và hiệu quả (với việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong việc tiến hành các thủ tục mua sắm). Theo đó, sẽ có một cổng duy nhất với chức năng là nguồn chính thức của tất cả các thông tin về mua sắm chính phủ (G-EPS). G-EPS sẽ cung cấp với tính năng như là nguồn chính và xác định của thông tin về mua sắm chính phủ. Hơn nữa, Ban Chính sách mua sắm của Chính phủ có thẩm quyền phê duyệt các thay đổi trong quá trình mua sắm để thích ứng với những cải tiến trong công nghệ hiện đại, miễn là sửa đổi như vậy là phù hợp với các quy định tại Luật này.

Để tận dụng lợi thế về tính hiệu quả G-EPS và mức giảm giá đối khối lượng mua sắm lớn, tất cả các cơ quan chịu trách nhiệm mua sắm được sử dụng G-EPS cho mua sắm vật dụng phù hợp với các quy tắc và thủ tục để được thiết lập bởi Ban Chính sách mua sắm của Chính phủ. Đối với việc mua sắm các mặt hàng không sử dụng chung, các dự án cơ sở hạ tầng và các dịch vụ tư vấn, các cơ quan có thể thuê các nhà cung cấp dịch vụ để thực hiện mua sắm điện tử với điều kiện các nhà cung cấp dịch vụ đáp ứng yêu cầu tối thiểu các yêu cầu do Ban Chính sách mua sắm của Chính phủ đặt ra.

Ngoài các quy định này, Luật đưa ra các quy định cụ thể về quá trình tổ chức đấu thầu kể từ khi thông báo mời thầu, lập và phát hành hồ sơ mời thầu đến đánh giá kết quả lựa chọn nhà thầu, xét duyệt trúng thầu, trao hợp đồng…

2.2. HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU ĐIỆN TỬ (XÉT TRÊN KHÍA CẠNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ) VÀ THỰC TRẠNG ĐẤU THẦU ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM

2.2.1. Hệ thống các văn bản pháp luật

Với vai trò quan trọng của đấu thầu điện tử trong việc cải cách mua sắm công, từng bước xây dựng Chính phủ điện tử, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay để đáp ứng với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật mang tính định hướng phát triển thương mại điện tử nói chung, từ đó tạo cơ sở cho đấu thầu điện tử nói riêng.

2.2.1.1. Quyết định số 222/2005/QĐ-TTg ngày 15/9/2005 về việc phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006 - 2010

Căn cứ theo Quyết định này, một trong những mục tiêu chủ yếu cần đạt được theo kế hoạch đến năm 2010 là "các chào thầu mua sắm chính phủ được công bố trên Trang tin điện tử của các cơ quan chính phủ và ứng dụng giao dịch thương mại điện tử trong mua sắm chính phủ". Để thực hiện mục tiêu này và các mục tiêu khác, có 6 nhóm chính sách và giải pháp chủ yếu là: đào tạo và tuyên truyền, phổ cập về thương mại điện tử (1); hoàn thiện hệ thống pháp luật (2); yêu cầu đối với các cơ quan chính phủ về cung cấp các dịch vụ hỗ trợ thương mại điện tử và thực hiện giao dịch điện tử trong mua sắm chính phủ (3); phát triển các công nghệ hỗ trợ thương mại điện tử trên cơ sở khuyến khích chuyển giao công nghệ từ nước ngoài (4); tổ chức thực thi các quy định pháp luật liên quan tới thương mại điện tử (5) và hợp tác quốc tế về thương mại điện tử (6). Nhóm chính sách và giải pháp (3) được cụ thể hóa như sau: "Đến năm 2010 các cơ quan chính phủ phải đưa hết các dịch vụ công lên mạng, trong đó ưu tiên các dịch vụ: thuế điện tử, hải quan điện tử, các thủ tục xuất nhập khẩu điện tử, thủ tục liên quan tới đầu tư và đăng ký kinh doanh điện tử, các loại giấy phép thương mại chuyên ngành, thủ tục giải quyết tranh chấp" và "Sửa đổi các quy định về đấu thầu trong mua sắm chính phủ theo

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

hướng các chủ đầu tư phải công bố mời thầu lên Trang tin điện tử của cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu và các Trang tin điện tử của các cơ quan khác. Các Bộ, ngành Trung ương, các cơ quan chính quyền địa phương các thành phố lớn phải từng bước tiến hành giao kết hợp đồng mua sắm chính phủ trên mạng". Cũng theo Quyết định này, một trong những dự án cụ thể tiến hành trong giai đoạn 2006 - 2010 nhằm thực hiện các chính sách và giải pháp chủ yếu là "Ứng dụng thương mại điện tử trong mua sắm chính phủ".

2.2.1.2. Luật Công nghệ thông tin

Pháp luật về đấu thầu điện tử của một số nước, kinh nghiệm và khả năng áp dụng ở Việt Nam - 9

Luật Công nghệ thông tin năm 2006, hành lang pháp lý cơ bản để điều chỉnh các hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin cùng các biện pháp đảm bảo hạ tầng công nghệ. Theo đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước theo quy định phải được ưu tiên, bảo đảm tính công khai, minh bạch nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước; tạo điều kiện để nhân dân thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ công dân, đồng thời, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước phải đảm bảo thúc đẩy chương trình đổi mới hoạt động của cơ quan nhà nước và chương trình cải cách hành chính (Điều 24). Luật cũng quy định các điều kiện để triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước, theo đó, cơ quan nhà nước có trách nhiệm chuẩn bị các điều kiện để triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan mình và Chính phủ quy định cụ thể các điều kiện bảo đảm cho ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước; xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước với các nội dung chủ yếu liên quan đến: lộ trình thực hiện; các ngành, lĩnh vực cần ưu tiên ứng dụng công nghệ thông tin; việc chia sẻ, sử dụng chung thông tin số; lĩnh vực được ưu tiên, khuyến khích nghiên cứu - phát triển, hợp tác quốc tế, phát triển nguồn nhân lực và xây dựng cơ sở hạ tầng; nguồn tài chính và các chương trình, đề án, dự án trọng điểm (Điều 25).

Luật Công nghệ thông tin cũng đặt ra quy định về nội dung ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước, trong đó có quy định về thiết lập trang thông tin điện tử tại Điều 26 với một trong những thông tin chủ yếu là "thông tin về dự án, hạng mục đầu tư, đấu thầu, mua sắm công" (Điều 28). Ngoài ra, Luật cũng đặt ra các quy định về bảo đảm cơ sở hạ tầng thông tin phục vụ việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin tại Điều 55.

Ngoài ra, Luật cũng quy định những nguyên tắc chung về hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, theo đó "tổ chức, cá nhân có quyền tiến hành các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin theo quy định" (khoản 1 Điều 13), các quy định về quản lý và sử dụng thông tin số, thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân trên môi trường mạng, thiết lập trang thông tin điện tử…

Với các quy định mang tính nguyên tắc này, Luật Công nghệ thông tin đã tạo nền tảng pháp lý cơ bản để điều chỉnh các hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin cùng các biện pháp đảm bảo hạ tầng công nghệ, đặc biệt là trong hoạt động của các cơ quan nhà nước.

2.2.1.3. Luật Giao dịch điện tử và các nghị định hướng dẫn thực hiện

a. Luật Giao dịch điện tử

Luật Giao dịch điện tử được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/03/2006. Luật gồm 8 chương, 54 điều quy định về thông điệp dữ liệu, chữ ký điện tử và chứng thực chữ ký điện tử, giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước, an ninh, an toàn, bảo vệ, bảo mật trong giao dịch điện tử, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong giao dịch điện tử. Phạm vi điều chỉnh chủ yếu của Luật là giao dịch điện tử trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại.

Luật Giao dịch điện tử nhấn mạnh nguyên tắc tiến hành giao dịch điện tử là tự nguyện, được tự thỏa thuận về việc lựa chọn công nghệ để thực hiện giao dịch, trung lập về công nghệ, bảo đảm sự bình đẳng và an toàn.

Luật Giao dịch điện tử là văn bản nền tảng cho mọi hoạt động giao dịch điện tử nói chung và thương mại điện tử nói riêng, trong đó thiết lập quy định về chữ ký điện tử và giá trị pháp lý của chữ ký điện tử. Theo đó, "chữ ký điện tử được tạo lập dưới dạng từ, chữ, số, ký hiệu, âm thanh hoặc các hình thức khác bằng phương tiện điện tử, gắn liền hoặc kết hợp một cách lô gíc với thông điệp dữ liệu, có khả năng xác nhận người ký thông điệp dữ liệu và xác nhận sự chấp thuận của người đó đối với nội dung thông điệp dữ liệu được ký" (Điều 21). Như vậy, có thể hiểu chữ ký điện tử là thuật ngữ chỉ tất cả các phương pháp khác nhau để một người có thể "ký tên" vào một dữ liệu điện tử, thể hiện sự chấp thuận của người đó đối với nội dung dữ liệu và rằng dữ liệu đó là nguyên gốc (không bị thay đổi kể từ thời điểm ký). Chữ ký điện tử có thể là một cái tên đặt cuối dữ liệu điện tử, một ảnh chụp chữ ký viết tay gắn với dữ liệu điện tử, một mã số bí mật có khả năng xác định người gửi dữ liệu điện tử, một biện pháp sinh học có khả năng xác định nhân thân người gửi dữ liệu điện tử,... Đối với chữ ký điện tử của cơ quan nhà nước thì phải được chứng thực bởi tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 23. Luật cũng thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử tại Điều 24. Đồng thời đưa ra khái niệm về chứng thư điện tử, đó là thông điệp dữ liệu do tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử phát hành nhằm xác nhận cơ quan, tổ chức, cá nhân được chứng thực là người ký chữ ký điện tử.

Luật Giao dịch điện tử cũng đưa ra khái niệm về hợp đồng điện tử tại Điều 33 và thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử "Giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử không thể bị phủ nhận chỉ vì hợp đồng đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu" (Điều 34). Trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, thông báo dưới dạng thông điệp dữ liệu có giá trị pháp lý như thông báo bằng phương pháp truyền thống (Điều 38). Luật cũng khuyến khích cơ quan nhà nước thực hiện giao dịch điện tử. Luật yêu cầu: ''Căn cứ vào điều kiện phát triển kinh tế xã hội và tình hình cụ thể, cơ quan nhà nước xác định

một lộ trình hợp lý để sử dụng phương tiện điện tử trong hoạt động nội bộ, với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác''. Tổ chức, cá nhân có quyền lựa chọn phương thực giao dịch với cơ quan nhà nước nếu cơ quan nhà nước đó chấp nhận giao dịch theo phương tiện truyền thông và phương tiện điện tử. Khi tiến hành giao dịch điện tử, cơ quan nhà nước phải quy định cụ thể về: định dạng, biểu mẫu của thông điệp dữ liệu; loại chữ ký điện tử, chứng thực điện tử trong trường hợp giao dịch điện tử cần có chữ ký, chứng thực điện tử; các quy trình bảo đảm tính toàn vẹn, an toàn, bí mật của giao dịch điện tử.

b. Nghị định về thương mại điện tử (Nghị định số 57/2006/NĐ-CP)

Việc ra đời Nghị định này đánh dấu một bước tiến lớn trong việc tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về thương mại điện tử. Theo quy định tại Nghị định này thì chứng từ điện tử là chứng từ ở dạng thông điệp dữ liệu. Thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra,được gửi đi, được nhận hoặc được lưu trữ bằng phương tiện điện tử (Điều 3). Chứng từ điện tử có giá trị pháp lý như văn bản nếu thông tin chứa trong đó có thể truy cập được để sử dụng khi cần thiết (Điều 8). Chứng từ điện tử có giá trị pháp lý như bản gốc nếu thỏa mãn 02 điều kiện: có sự đảm bảo đủ tin cậy về tính toàn vẹn của thông tin chứa trong chứng từ điện tử từ khi thông tin được tạo ra ở dạng cuối cùng là chứng từ điện tử hay dạng khác; Thông tin chứa trong chứng từ điện tử có thể truy cập, sử dụng được dưới dạng hoàn chỉnh khi cần thiết (Điều 9). Chứng từ điện tử được coi là có chữ ký của một bên nếu đã sử dụng một phương pháp để xác nhận được bên ký chứng từ điện tử và xác nhận sự chấp thuận của bên đó đối với thông tin chứa trong chứng từ điện tử được ký (Điều 10). Trong trường hợp thông qua các hệ thống thông tin, một bên đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng và bên được đề nghị có thể tiếp cận được đề nghị đó thì trong khoảng thời gian hợp lý bên đưa ra đề nghị phải cung cấp cho bên được đề nghị chứng từ điện tử hoặc các chứng từ liên quan khác chứa những nội dung của hợp đồng. Các chứng từ này phải thỏa mãn điều kiện lưu trữ và sử dụng được.

c. Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số (Nghị định số 26/2007/NĐ-CP)

Nghị định đưa ra khái niệm về chữ ký số, đó là một dạng chữ ký điện tử được tạo ra bằng sự biến đổi một thông điệp dữ liệu sử dụng hệ thống mật mã không đối xứng, nó bao gồm một cặp khóa, trong đó khóa bí mật (dành cho người gửi) được sử dụng để ký một dữ liệu điện tử và khóa công khai (dành cho người nhận) để mở dữ liệu điện tử và xác định nhân thân người gửi. Nghị định cũng thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký số (Điều 8), điều kiện bảo đảm an toàn cho chữ ký số, đó là: (1) Chữ ký số được tạo ra trong thời gian chứng thư số có hiệu lực và kiểm tra được bằng khóa công khai ghi trên chứng thư số có hiệu lực đó; (2) Chữ ký số được tạo ra bằng việc sử dụng khóa bí mật tương ứng với khóa công khai ghi trên chứng thư số do tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số quốc gia, tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng, tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện đảm bảo an toàn cho chữ ký số hoặc tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số nước ngoài được công nhận tại Việt Nam cấp; (3) Khóa bí mật chỉ thuộc sự kiểm soát của người ký tại thời điểm ký; (4) Khóa bí mật và nội dung thông điệp dữ liệu chỉ gắn duy nhất với người ký khi người đó ký số thông điệp dữ liệu (Điều 9).

Nghị định cũng đưa ra quy định về dịch vụ chứng thực chữ ký số, quy định chi tiết về hoạt động của các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số với mục đích kinh doanh, với mục đích chuyên dùng trong một phạm vi nào đó, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức này và các quy định về việc thành lập và hoạt động của tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số quốc gia (Root CA).

Nghị định này cũng đề ra chính sách phát triển dịch vụ chứng thực chữ ký số và quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về dịch vụ chứng thực chữ ký số, theo đó: Bộ Bưu chính, Viễn thông (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông) chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà

nước về dịch vụ chứng thực chữ ký số; Bộ Công an chịu trách nhiệm chủ trì trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm công nghệ cao sử dụng chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số; Ban cơ yếu Chính phủ thành lập và duy trì hoạt động của tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng phục vụ các cơ quan thuộc hệ thống chính trị.

d) Nghị định về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính (Nghị định số 27/2007/NĐ-CP)

Nghị định đưa ra các quy định đối với việc cơ quan tài chính và tổ chức, cá nhân có tham gia giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính với cơ quan tài chính phải sử dụng chữ ký số. Giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính giữa tổ chức, cá nhân với cơ quan tài chính phải sử dụng chữ ký số và chứng thư số do Tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng cung cấp.

Nghị định này cũng xác nhận chứng từ điện tử có tính pháp lý tương đương với chứng từ giấy và khi cần thiết chứng từ điện tử có thể chuyển sang chứng từ giấy và ngược lại.

e) Nghị định về giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng (Nghị định số 35/2007/NĐ-CP)

Ngày 08/3/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 35/2007/NĐ-CP về Giao dịch điện tử trong hoạt động Ngân hàng, theo đó: các cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền lựa chọn giao dịch bằng phương tiện điện tử hoặc giao dịch theo phương thức truyền thống. Trường hợp sử dụng giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng, các cơ quan, tổ chức, cá nhân đó phải có chữ ký điện tử (bao gồm chữ ký số và các loại chữ ký điện tử khác) theo quy định. Nghị định này tạo cơ sở pháp lý cho việc thanh toán điện tử.

2.2.1.4. Luật Thương mại 2005

Luật Thương mại (sửa đổi) được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/01/2006 là văn bản pháp

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 30/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí