Pháp Luật Về Quyền Và Nghĩa Vụ Của Cha Mẹ Đối Với Con Sau Khi Ly Hôn

* Trường hợp thứ hai: Cha mẹ không thỏa thuận được việc nuôi con

Việc tranh chấp quyền nuôi con trong thực tế diễn ra khá phổ biến, đặc biết là khi vợ chồng chỉ có một người con. Khi không thể thỏa thuận được ai là người nuôi con thì vấn đề Tòa án quyết định giao quyền trực tiếp nuôi con cho ai sẽ đươc đặt ra. Căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 81 ở trên, Tòa án sẽ căn cứ dựa vào quyền lợi mọi mặt của con bao gồm các yếu tố:

+ Điều kiện về vật chất như: ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện học tập… mà mỗi bên có thể dành cho con, các yếu tố đó dựa trên thu nhập, tài sản, chỗ ở của cha mẹ. Đây là một trong các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc giành quyền trực tiếp nuôi con khi ly hôn.

+ Điều kiện về tinh thần như: thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con; sự yêu thương, tình cảm đối với con từ trước đến nay; điều kiện cho con vui chơi giải trí, nhân cách đạo đức, trình độ học vấn,.. của cha mẹ. Những thói hư, tật xấu, thời gian hạn chế sẽ là một yếu tố gây trở ngại trong việc giành quyền trực tiếp nuôi con của cha mẹ.

+ Nguyện vọng của con: là việc người con mong muốn được sống với ai trong trường hợp con từ đủ 7 tuổi trở lên. Quy định này đã tuân theo nguyên tắc bảo đảm thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em về việc trẻ em có quyền được tôn trọng, lắng nghe, xem xét, phản hồi ý kiến, nguyện vọng [36]. Việc hỏi nguyện vọng của con trong trường hợp này chỉ mang tính tham khảo, xem xét và quyết định xem ai là người trực tiếp nuôi con. Tại điểm này có một số khác biệt so với Luật HN&GĐ trước đó, khi độ tuổi xem xét ý kiến của con từ 09 tuổi giảm xuống còn 07 tuổi. Tất cả là vì trẻ em ngày nay càng phát triển và ở độ tuổi này thì trẻ đã có những nhận thức cũng như cảm nhận của riêng chúng nên các nhà làm luật cũng đã xem xét để giảm độ tuổi lấy ý kiến của trẻ xuống.

Trường hợp con dưới 36 tháng tuổi thì được giao cho người mẹ trực

tiếp nuôi. Đây là một quyền ưu tiên cho người mẹ, bởi lúc này trẻ rất còn nhỏ đòi hỏi cần sự chăm sóc, nuôi dưỡng của người mẹ; hơn nữa ở tháng tuổi này trẻ vẫn còn ở gian đoạn bú sữa mẹ nên cháu bắt buộc phải là mẹ nuôi; thiếu vắng sự chăm sóc của người mẹ sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển bình thường của đứa trẻ. Tuy nhiên, quy định không phải mọi trường hợp đều giao cho người mẹ chăm sóc; trong trường hợp người mẹ không đủ khả năng, điều kiện để trực tiếp chăm sóc, nuôi nấng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác thì Tòa án vẫn sẽ có quyết định khác nhằm phù hợp với lợi ích của con.

Xác định người cấp dưỡng cho con

Đối với cha, mẹ trực tiếp nuôi con

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền cũng như nghĩa vụ đối với con như việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014, BLDS năm 2015 và các bộ luật có liên quan khác.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.

Cha/mẹ trực tiếp nuôi con là người sống cùng với con sau ly hôn nên nhìn chung nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con không có nhiều thay đổi. Có chăng là họ nên dành thời gian quan tâm tới con nhiều hơn, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của con để bù đắp những thiếu hụt tình cảm của con. Cụ thể, quyền và nghĩa vụ của người trực tiếp nuôi con áp dụng theo Điều 71, Điều 72 Luật HN&GĐ 2014:

Điều 71. Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng

Pháp luật về bảo vệ quyền của con khi cha mẹ ly hôn - 10

1. Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

2. Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật; trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ.

Điều 72. Nghĩa vụ và quyền giáo dục con

1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập.

Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường, cơ quan, tổ chức trong việc giáo dục con.

2. Cha mẹ hướn dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con.

3. Cha mẹ có thể đề nghị cơ quan,tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện việc giáo dục con khi gặp khó khăn không thể tự giải quyết được.

Các quy định trên hoàn toàn phù hợp với các quy định trong Luật trẻ em năm 2016.

Ngoài ra, pháp luật còn quy định một điều luật mới: Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ cấp dưỡng, thăm nom theo quy định; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. (Khoản 1 Điều 83 Luật HN&GĐ 2014).

Đối với cha, mẹ không trực tiếp nuôi con

Sau khi ly hôn tuy không được sống cùng con nhưng người không trực tiếp nuôi con vẫn là cha, là mẹ của con, họ vẫn phải thực hiện việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con bằng cách này hay cách khác. Đây vừa là quyền vừa là nghĩa vụ bởi trong cuộc sống này không ai thay thế trách nhiệm làm cha, làm mẹ đối với con của mình. Theo quy định của khoản 3 Điều 82 Luật

HN&GĐ 2014 sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Ở đây, quyền được thăm nom chính là quyền lợi chính đáng có ý nghĩa thiết thực đối với cha, mẹ không giành được quyền nuôi con. Quy định này nhằm bù đắp cho tình cảm nhớ mong, muốn được gặp và chăm sóc con, và cũng là bù đắp cho tình cảm của đứa trẻ khi không được sống chung với cha, mẹ dưới cùng một mái nhà. Tuy nhiên, người không trực tiếp nuôi con không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trong trường hợp này, người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó nhằm bảo vệ quyền lợi của con không bị xâm phạm bởi chính cha hay mẹ của mình.

Bên cạnh việc quy định quyền, pháp luật HN&GĐ còn quy định cụ thể nghĩa vụ cho người không trực tiếp nuôi con. Theo đó “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.”(Khoản 2 Điều 82 Luật HN&GĐ 2014). Cấp dưỡng là một thuật ngữ thể hiện việc một người chu cấp tiền bạc hoặc tài sản cho người có nhu cầu được nuôi dưỡng trên cơ sở giữa họ có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Các thành viên trong gia đình luôn có sự gắn bó chặt chẽ, sâu sắc về tình cảm và trách nhiệm đối với nhau. Do đó, quan hệ cấp dưỡng là quan hệ đặc trưng của pháp luật hôn nhân và gia đình.

Quan hệ cấp dưỡng là một loại quan hệ pháp luật về tài sản gắn với nhân thân của mỗi bên trong quan hệ cấp dưỡng. Điều đó thể hiện ở chỗ: người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải chu cấp một số tiền hoặc tài sản nhất định nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu cho người được cấp dưỡng. Đây là

quan hệ tài sản gắn liền với nhân thân của các bên trong quan hệ cấp dưỡng (bên có nghĩa vụ cấp dưỡng và bên được cấp dưỡng), vì vậy nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ không được chuyển giao cho người khác mà phải do chính người có nghĩa vụ thực hiện và việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cũng phải được thực hiện cho người có quyền được cấp dưỡng. Điều này đã được quy định tại khoản 1 - Điều 107 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác.”

Tại Điều 110 HN&GĐ năm 2014 có quy định cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con. Như vậy, cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của cha, mẹ. Do đó, không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con trừ trường hợp hai bên tự nguyện thỏa thuận không yêu cầu cấp dưỡng.

Mức cấp dưỡng nuôi con được quy định tại Điều 116 Luật HN&GĐ năm 2014. Pháp luật ưu tiên cho các bên trong quan hệ cấp dưỡng được tự thỏa thuận về mức cấp dưỡng, căn cứ trên thu nhập, khả năng lao động về thực tế của người cấp dưỡng cũng như xác minh về nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Nếu các bên không thể thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án quyết định. Mức cấp dưỡng nuôi con của cha/mẹ sau khi ly hôn sẽ dựa trên sự tính toán “những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con”, cụ thể là bao nhiêu thì tùy thuộc vào “từng trường hợp cụ thể, và vào khả năng của mỗi bên”.

Tương tự như mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng cũng được xác định theo nguyên tắc ưu tiên sự thỏa thuận của các bên trước. Các bên có thể thỏa thuận cấp dưỡng theo định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm

hoặc một lần. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được để đi đến thống nhất phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, Tòa án sẽ quyết định phương thức cấp dưỡng. (Điều 117 Luật HN&GĐ năm 2014).

Sở dĩ, pháp luật ưu tiên thỏa thuận mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng vì vợ chồng hiểu rõ điều kiện kinh tế của nhau nhất. Hơn nữa cũng biết rõ những chi phí cần thiết cho nhu cầu hàng ngày của con là bao nhiêu. Từ đó thông qua thỏa thuận, hai bên đưa ra được mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng sát với thực tế nhất.

Xét về khía cạnh nào đó, pháp luật quy định về việc chấm dứt việc thực hiện cấp dưỡng cũng là để bảo vệ cho quyền và lợi ích của con khi cha mẹ ly hôn. Bởi lẽ, có thể hiểu rằng ngoài những trường hợp chấm dứt theo quy định Điều 118 Luật HN&GĐ năm 2014 ra thì người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con một cách liên tục, không tự ý thực hiện một cách ngắt quãng hoặc tự ý chấm dứt nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, các bên cũng không thể tự do thỏa thuận về việc cấp dưỡng một cách tùy tiện nhằm đạt mục đích khác, việc thỏa thuận này vẫn phải dựa theo những căn cứ khi Tòa giải quyết lúc không thỏa thuận được.

2.1.5. Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn

Bảo vệ quyền của con trong việc thay đổi người trực tiếp nuôi con

Một người được giao trực tiếp nuôi con sẽ không phải luôn luôn cố định, do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như xuất phát từ việc bảo vệ quyền lợi tốt nhất của con, pháp luật HN&GĐ đã quy định những trường hợp có đủ các điều hiện cụ thể có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con. Theo đó, khi có yêu cầu của cha; mẹ; người thân thích; cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ (khoản 1

Điều 117 Luật HN&GĐ năm 2014) Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con. Luật chỉ quy định những chủ thể này có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con bởi: cha mẹ ly hôn đã là thiệt thòi, phải rất khó khăn để thích nghi với việc sống cùng cha hoặc mẹ, nhưng sau đó con lại phải thay đổi thói quen này chuyển sang sống cùng người còn lại. Do đó, pháp luật đã quy định rất chặt chẽ phạm vi chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án, điều này cơ bản xuất phát từ lợi ích của con.

Mặc khác, Luật HN&GĐ năm 2014 đã tiến bộ hơn Luật HN&GĐ năm 2000 ở điểm: luật cũ chỉ giới hạn quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cho cha và mẹ, vì lý do gì đó cha hoặc mẹ không yêu cầu Tòa án giải quyết. Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định thêm các chủ thể khác nhằm khắc phục nhược điểm trên, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con.

Việc bảo vệ thực hiện quyền của con khi cha mẹ ly hôn còn được thể hiện rõ qua căn cứ để thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Điều 84. Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn […]

2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:

a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;

b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Như vậy, khi có đơn yêu cầu và một trong hai căn cứ trên, Tòa án sẽ xem xét quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con. Điều này đã đề cập đến việc bảo vệ quyền lợi của con một cách cụ thể tại căn cứ thứ nhất, và một cách ẩn dụ tại căn cứ thứ 2 khi xét đến việc bảo vệ quyền của con là mục đích cuối cùng.

Ngoài ra, cũng theo Điều 84 này, khi giải quyết thay đổi người trực tiếp

nuôi con còn phải xem xét tham khảo nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên. Trường hợp đặc biệt, nếu xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.

Khi thay đổi người trực tiếp nuôi con, một số quyền và nghĩa vụ của người trực tiếp nuôi con và người không trực tiếp nuôi con sẽ bị hoán đổi. Tuy nhiên, những người nầy vẫn là cha, là mẹ của con nên họ vẫn có quyền, nghĩa vụ cùng chăm sóc, nuôi dưỡng, phối hợp với nhà trường giáo dục con.

Bảo vệ quyền và lợi ích của con trong việc xử lý hành vi trốn tránh trách nhiệm cấp dưỡng với con

Để bảo vệ quyền lợi của con, Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định các biện pháp cưỡng chế việc không thực hiện nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con.

Thứ nhất, Luật HN&GĐ năm 2014 đặt ra quy định nhắc nhở, buộc người không trực tiếp nuôi con phải thực hiện nghĩa vụ của mình. (Quy định cụ thể tại Điều 119 về Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng ).

Thứ hai, đặt ra chế tài về hành chính, hành vi này được quy định chung tại điểm a khoản 3 Điều 52 Nghị định 110/2013/NĐ-CP. Theo đó, hành vi “không thực hiện công việc phải làm, không chấm dứt thực hiện công việc không được làm theo bản án, quyết định” của tòa án có thể bị phạt tiền từ 3-5 triệu đồng.

Thứ ba, hành vi cố ý không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng. Theo đó:

Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp

Xem tất cả 132 trang.

Ngày đăng: 29/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí