Pháp Luật Bảo Vệ Quyền Lợi Của Con Khi Chia Tài Sản Ly Hôn

tới quan hệ vợ chồng và các thành viên trong gia đình, nhất là những người con. Cần phải giải phóng vợ, chồng thoát khỏi hoàn cảnh đặc biệt này, khi họ có yêu cầu được ly hôn với người chồng, vợ đã bị tòa án tuyên bố mất tích.

Ba là, căn cứ ly hôn đối với trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 trong Luật HN&GĐ năm 2014:

Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

Như vậy, đây chính là căn cứ để cha mẹ, người thân thích khác cũng có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng sức khỏe tinh thần của họ. Thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai nguời mới có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn như trước đây thì kể từ nay.

Ngoài ra, căn cứ theo Khoản 3 Điều 208 BLTTDS năm 2015 quy định: Đối với vụ án HN&GĐ liên quan đến người chưa thành niên, trước khi mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự thì Thẩm phán, Thẩm tra viên được Chánh án Tòa án phân công phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp. Khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân phát sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án.

Quy định này thể hiện tính chất đặc thù của vụ án hôn nhân và gia đình nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ, chồng, con. Do vậy, đối với vụ án HN&GĐ có liên quan đến người chưa thành niên, việc thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân phát sinh tranh chấp là bắt buộc.

Nhìn chung, căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 đang nhận được rất nhiều sự quan tâm từ dư luận xã hội. Các căn cứ ly hôn này đã góp phần giải quyết tốt nhiều án ly hôn, giải phóng cho nhiều cuộc hôn nhân thoát khỏi những bế tắc.

2.1.3. Pháp luật bảo vệ quyền lợi của con khi chia tài sản ly hôn

Bảo vệ quyền và lợi ích của con khi cha mẹ chia tài sản chung

Khi Tòa án giải quyết việc ly hôn, vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng luôn là vấn đề khó và phức tạp nhất. Về nguyên tắc chung, vợ chồng có quyền thỏa thuận về việc phân chia tài sản chung khi ly hôn, nếu không thể thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án để giải quyết. Pháp luật HN&GĐ không quy định cha mẹ khi ly hôn phải chia tài sản cho con cái. Việc chia hay không chia tài sản cho con hoàn toàn thuộc quyền quyết định của cha, mẹ. Vì vậy, cha, mẹ có thể thỏa thuận về việc chia tài sản cho con. Nếu cha, mẹ thỏa thuận sẽ cho toàn bộ hoặc một phần tài sản cho con thì việc tặng cho tài sản này phải lập thành hợp đồng tặng cho có công chứng chứng thực theo quy định pháp luật, trường hợp này con sẽ có quyền sở hữu phần tài sản được tặng cho đó.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.

Trường hợp thỏa thuận chưa đầy đủ, tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố khác, trong đó có yếu tố: “Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.”(Khoản 2 Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014).

Ví dụ: Khi chia nhà ở là tài sản chung và là chỗ ở duy nhất của vợ chồng, trong trường hợp không chia được bằng hiện vật thì Tòa án xem xét và

Pháp luật về bảo vệ quyền của con khi cha mẹ ly hôn - 9

quyết định cho người vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi con chưa thành niên, con bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự nhận hiện vật và thanh toán giá trị tương ứng với phần tài sản được chia cho người chồng hoặc vợ nếu người vợ hoặc chồng có yêu cầu. (Theo khoản 6, Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP).

Luật HN&GĐ năm 2014 thay thế Luật HN&GĐ năm 2000 đã sửa đổi bổ sung và quy định mới nổi bật, quy định về phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn là một trong số những nội dung đáng chú ý bảo vệ quyền và lợi ích của con về mặt tài sản khi cha mẹ ly hôn.

Thứ nhất, là về nguyên tắc phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.

Điểm d, khoản 2 Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014 bổ sung một nguyên tắc rất quan trọng trong việc phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn là: tính đến việc xét lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ vợ chồng. Theo quy định của Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP (Điểm d, khoản 4) “Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ vợ chồng” ở đây được hiểu là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn. Ví dụ: Trường hợp người chồng có hành vi bạo lực gia đình, không chung thủy hoặc phá tán tài sản thì khi giải quyết ly hôn Tòa án phải xem xét yếu tố lỗi của người chồng khi chia tài sản chung của vợ chồng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên.

Thứ hai, quy định mới về giải quyết quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba khi ly hôn.

Vấn đề này được quy định tại Điều 60 Luật HN&GĐ năm 2014. Theo đó, trừ trường hợp giữa vợ chồng với người thứ ba có thỏa thuận khác, thì sau khi ly hôn, quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực. Trường hợp tranh chấp liên quan đến trách nhiệm liên đới

của vợ chồng theo Điều 27, về các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng theo Điều 37, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng theo Điều 45 thì giải quyết theo Bộ luật dân sự. Quyền lợi của người con được bảo vệ khi là người thứ ba trong trường hợp này. Dù cho cha mẹ có ly hôn, cha mẹ vẫn có nghĩa vụ trả nợ đối với con, trừ khi có thỏa thuận khác.

Thứ ba, quy định mới về quyền lưu cư của vợ hoặc chồng khi ly hôn (Điều 63 - Luật HN&GĐ năm 2014).

Đây là một trong những điểm mới nổi bật của Luật HN&GĐ năm 2014. Quyền lưu cư được hiểu một cách đơn giản có nghĩa là tiếp tục được ở, cư trú. Quyền lưu cư của vợ hoặc chồng khi ly hôn có nội dung là: Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng đưa vào sử dụng trong hôn nhân thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; Trong trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì có quyền lưu cư trong 6 tháng kể từ ngày chấm dứt hôn nhân, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Nếu Tòa xử cho người cha, người mẹ đang tạm thời gặp khó khăn về chỗ ở quyền nuôi con thì đương nhiên, đứa con cũng sẽ có quyền lưu cư như cha, mẹ mình.

Thứ tư, quy định mới về chia tài sản chung của vợ chồng khi đưa vào kinh doanh.

Theo Điều 64 Luật HN&GĐ năm 2014 và Thông tư liên tịch 01/2016 thì nếu vợ, hoặc chồng đang thực hiện kinh doanh có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, thì khi chia tài sản khi ly hôn, có quyền được nhận tài sản đó và thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ được hưởng. Trừ trường hợp pháp luật kinh doanh có quy định khác. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự. Các quy định trên vừa nhằm tạo điều kiện sống thuận lợi sau ly hôn cho vợ, chồng,

vừa không để ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các con. Đảm bảo ổn định kinh tế cho cha, mẹ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nghĩa vụ chăm sóc con cái sau này.

Ví dụ: Vợ chồng có tài sản chung là một chiếc ô tô người chồng đang chạy xe taxi trị giá 400 triệu đồng và một cửa hàng tạp hóa người vợ đang kinh doanh trị giá 200 triệu đồng. Khi giải quyết ly hôn và chia tài sản chung, Tòa án phải xem xét giao cửa hàng tạp hóa cho người vợ, giao xe ô tô cho người chồng để họ tiếp tục kinh doanh, tạo thu nhập. Người chồng nhận được phần giá trị tài sản lớn hơn phải thanh toán cho người vợ phần giá trị là 100 triệu đồng. (Theo điểm c, khoản 4, Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BTP).

Việc phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn là một trong những vấn đề thường dẫn đến tranh chấp giữa các bên trong quá trình ly hôn, vì thế việc bổ sung và quy định mới các quy định về xác định, phân chia tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn có ý nghĩa quan trọng, góp phần hạn chế tranh chấp, bảo đảm quyền và lợi ích của các bên đương sự và bên có liên quan, nhất là quyền và lợi ích của người con.

Bảo vệ quyền và lợi ích về tài tài sản của con khi cha mẹ ly hôn

Trước hết phải khẳng định, con có quyền có tài sản riêng. Căn cứ Điều 75, Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:

1. Con có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của con bao gồm tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con và thu nhập hợp pháp khác. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của con cũng là tài sản riêng của con.

2. Con từ đủ 15 tuổi trở lên sống chung với cha mẹ phải có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình; đóng góp vào việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình nếu có thu nhập.

3. Con đã thành niên có nghĩa vụ đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình theo quy định tại khoản 4 Điều 70 của Luật này.

Quy định này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người con trong quan hệ HN&GĐ nói chung và khi cha mẹ các em ly hôn nói riêng. Khi cha mẹ ly hôn, nếu như các con có căn cứ chứng minh công sức đóng góp của mình trong khối tài sản chung của gia đình thì các con có quyền được phân chia tài sản đó. Về vấn đề tài sản riêng của con khi cha mẹ ly hôn sẽ được giải quyết theo Điều 76, Luật HN&GĐ năm 2014 quy định việc quản lý tài sản riêng của con:

+ Con từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý. Trường hợp này con sẽ tự quyết định về tài sản riêng của mình, cha mẹ khi ly hôn cũng không có quyền can thiệp.

+ Đối với trường hợp con dưới 15 tuổi, con mất năng lực hành vi dân sự tài sản sẽ do cha mẹ quản lý. Cha mẹ có thể ủy quyền cho người khác quản lý tài sản riêng của con. Khi cha mẹ ly hôn việc quản lý tài sản riêng của con cũng tương tự, tài sản này sẽ được giao lại cho con khi con từ đủ 15 tuổi trở lên hoặc khi con khôi phục năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp cha mẹ và con có thỏa thuận khác.

+ Trường hợp con đang được người khác giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự; người tặng cho tài sản hoặc để lại tài sản thừa kế theo di chúc cho người con đã chỉ định người khác quản lý tài sản đó hoặc trường hợp khác theo quy định của pháp luật thì cha mẹ không quản lý tài sản riêng của con ngay cả khi cha mẹ có ly hôn hay không.

+ Trường hợp khi cha mẹ ly hôn, người trực tiếp nuôi con đang quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự mà con được giao cho người khác giám hộ thì tài sản riêng của con được giao lại cho người giám hộ quản lý theo quy định của BLDS.

Như vậy, vấn đề tài sản của con khi cha mẹ ly hôn đã được pháp luật HN&GĐ Việt Nam đã dự liệu và bảo vệ.

2.1.4. Pháp luật bảo vệ quyền lợi của con khi xác định người nuôi con, người cấp dưỡng.

Xác định người nuôi con

Mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình thật sự hạnh phúc và bền vững. Nếu không thể đạt được mục đích hôn nhân, mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng không thể dung hòa được thì ly hôn có lẽ là lựa chọn đúng đắn. Sau khi cha mẹ ly hôn, quyền lợi chính đáng về quyền nhân thân của con cái không thay đổi. Tại Điều 81 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:

1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Như vậy, có thể thấy pháp luật HN&GĐ bảo vệ quyền của con khi xác định người trực tiếp nuôi con được thể hiện qua các trường hợp sau:

* Trường hợp thứ nhất: Cha mẹ tự thỏa thuận với nhau về người trực tiếp nuôi con

Cụ thể, nếu cha mẹ thỏa thuận được ai là người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thì con sẽ được giao cho người đó chăm sóc theo thỏa thuận đó. Việc thỏa thuận này sẽ được lập thành biên bản theo quy định của BLTTDS và được Tòa án ghi nhận trong bản án.

Tuy nhiên, không phải thỏa thuận nào cũng được Tòa án công nhận.

Khoản 4 Điều 68 luật HN&GĐ năm 2014 quy định điều luật mới:

Mọi thỏa thuận của cha mẹ, con liên quan đến quan hệ nhân thân, tài sản không được làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Nếu cha mẹ thỏa thuận người trực tiếp nuôi con nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì sẽ do Tòa án giải quyết việc ly hôn. Theo đó, việc thỏa thuận giữa cha mẹ phải hoàn toàn dựa trên sự tự do ý chí, sự tự nguyện của các bên, không bị dụ dỗ, ép buộc, đe dọa khi thỏa thuận. Sự thỏa thuận người trực tiếp nuôi con giữa cha và mẹ phải dựa trên quyền và lợi ích chính đáng của con. Ví dụ: Vì lý do cá nhân mà người mẹ thỏa thuận giao con cho cha nuôi dưỡng, nhưng người cha này là một người nghiệp ngập, rượu chè thường xuyên chửi mắng con, gây ảnh hưởng tiêu cực đến đứa trẻ. Tòa án sẽ quyết định việc này dựa trên nhiều yếu tố khác để đảm bảo cho cuộc sống của đứa trẻ đảm bảo phát triển.

Hơn ai hết, cha mẹ là những người yêu thương con cái mình nhất, hiểu rõ hoàn cảnh của nhau nên xét về khía cạnh nào đó đây là phương án tốt nhất trong việc đảm bảo quyền và lợi ích của con khi cha mẹ ly hôn.

Xem tất cả 132 trang.

Ngày đăng: 29/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí